Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên
Ngọc bàn trân tu trị vạn tiền
Đình bôi đầu trợ bất năng thực
Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên
Dục độ Hoàng Hà băng tắc xuyên
Tương đăng Thái Hàng tuyết ám thiên
Nhàn lai thuỷ điếu toạ khê thượng
Hốt phục thừa chu mộng nhật biên
Hành lộ nan! Hành lộ nan
Đa kỳ lộ, kim an tại?
Trường phong phá lãng hôi hữu thì
Trực quải vân phàm tế thượng hải.
Đũa vàng chén ngọc vạn một đấu
Thức ngon nhắm quí giá mười ngàn
Dừng chén,ném đũa,nuốt không được
Tuốt kiếm nhìn quanh lòng mênh mang
Muốn vượt Hoàng Hà sông băng đóng
Toan lên Thái Hàng núi tuyết phơi
Rảnh rỗi buông câu bờ khe biếc
Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mặt trời.
Đường đi khó ! Đường đi khó !
Nay ở đâu ? Đường bao ngả ?
Cưỡi gió phá sóng hẳn có ngày
Treo thẳng buồm mây vượt biển cả.
Dịch: khuyết danh
Tiểu sử
Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều.
Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng.
Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Hàn Quốc mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài.
Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...
Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời Vãn Đường nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".
Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...).
Truyện đời - Truyện người
Tại huyện Châu Cẩm tỉnh Tứ Xuyên, đời vua Huyền Tôn nhà Đường có một người đàn bà nằm mộng thấy sao Trường Canh sa vào mình, thọ thai sanh đặng một đứa con trai giòng họ Lý. Vì sao Trường Canh có tên là Thái Bạch, cho nên bà đặt tên con bà là Lý Bạch, hiệu là Thái Bạch.
Lý Bạch mới lên mười tuổi mà dung nhan phong nhã, cốt cách phi phàm, lại có tinh thông thư sử, xuất khẩu thành thơ, ai ai đều cho Lý Bạch là một vì tiên giáng thế. Do đó mọi người gọi Lý Bạch là Là Trích Tiên ; và Lý Bạch cũng tự đặt cho mình biệt hiệu là Thanh Tiên cư sĩ.
Con người đã vậy, thích gì đến công danh phú quý, Lý Bạch trọn đời ngâm thơ, uống rượu, du ngoạn khắp nơi, nghe chỗ nào có rượu ngon thì lần tới.
Lúc đó, Tư mã Hồ Châu tên Già Diệp đi qua, nghe trên lầu có giọng ngâm thơ sang sảng, bèn cho người dò hỏi xem ai ?
Lý Bạch đáp lại bằng 4 câu thơ như vầy :
Thanh Tiên cư sĩ trích tiên nhân,
Tửu tứ đào danh tam thập xuân
Hồ Châu Tư Mã hà tu vấn... ?
Kim túc như lai thị hậu thân.
Nghĩa là:
Thanh Tiên cư sĩ ấy người tiên,
Với tuổi ba mươi rượu lại ghiền.
Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi...?
Hậu thân kim túc chớ nên phiền.
Tư Mã Hồ Châu nghe mấy câu thơ giật mình hỏi :
Nói xong Hồ Châu mời Lý Bạch về công đường đã đằng mười ngày thơ rượu rất hậu.
Hồ Châu Tư Mã hỏi :
Nét mặt thản nhiên, Lý Bạch đáp :
Tiếc vì tài năng quán thế mà không có chỗ dùng nên Tư Mã Hồ Châu tỏ lời an ủi :
Hạ Tri Chương bảo Lý Bạch :
Cao Lực Sĩ cũng a dua nói :
— Hạng thí sinh ấy chỉ đáng tháo giày, xỏ tất mà thôi.
Nói xong, đuổi cổ Lý Bạch ra khỏi trường thi.
— Thế ra hiền đệ có thể đọc được chữ của nước Phiên sao ?
Lý Bạch khiêm tốn đáp :
— Có lẽ...
— Lý Bạch hiện nay ở đâu ?
— Tâu Bệ hạ, Lý Bạch hiện đang ở nhà hạ thần.
— Lý Bạch không chịu phụng chiếu vì lẽ nào vậy ?
Hạ Tri Chương đáp :
— Nay Thiên Tử đã có lòng ái mộ hiền nhân, vậy hiền đệ đừng vì hiềm tị lũ tham quan mà phụ lòng Thiên Tử, bỏ lỡ dịp may.
Bạch vâng lời, mặc triều phục, theo Hạ Tri Chương vào triều bái yết.
Lý Bạch mở thư trước mặt sứ thần đọc to :
“Đại Khả Độc nước Bột Hải gởi Đường Triều khẩn khán :
— Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ hỏi thử Thái Bạch có ý kiến gì hay chăng ?
Huyền Tôn hỏi Lý Bạch, Lý Bạch tâu :
— Trong thư tự xưng là Khả Độc, vậy Khả Độc là người nào ?
Lý Bạch tâu :
— Khả Độc là tên vua nước Bột Hải.
Lý Bạch thay vua phán rằng :
Lý Bạch đến trước Ngự tọa, cao giọng đọc bức chiếu thư :
Vì vậy, vua Huyền Tông trọng đãi Lý Bạch vô cùng, muốn gia phong cho Lý Bạch thêm chức tướng nhưng Lý Bạch một mực từ chối :
— Tâu Bệ hạ, bạc tiền, châu báu, chức tước đối với hạ thần không thích thú bằng tiêu dao nhàn hạ, xin Bệ hạ cứ cho giữ tước Học sĩ du ngoạn, hễ gặp rượu ngon thì uống, đủ vậy.
Biết Lý Bạch là bực thanh cao không dám làm phật lòng. Từ đấy cứ lâu lâu nhà vua lại mở yến diên thết đãi và thỉnh thoảng triệu Lý Bạch vào cung nội để bàn việc quốc sự.
Một hôm, Bạch cỡi ngựa thẩn thơ trước trường an, bỗng gặp một bọn đao phủ dẫn một chiếc tù xa đến pháp trường. Hỏi ra mới biết đó là viên tướng phạm tội, từ Tinh Châu giải về sắp hành quyết. Người ấy họ Quách tên Tử Nghi.
Lý Bạch thấy Tử Nghi mày ngài hàm én, biết là một tên kiện tướng có thể làm rường cột cho quốc gia sau này, bèn vội vã ra lệnh cho đao phủ thủ tạm ngưng việc hành quyết.
Dặn xong, Lý Bạch cỡi ngựa về triều cầu xin một đạo chỉ ân xá tội nhơn, rồi lại phi ngựa ra pháp trường, mở tù xa, thả Tử Nghi ra mà khuyên nhủ nên gắng sức đoái công phục tội để khỏi phụ lòng mong ước của Bạch.
Tử Nghi lạy tạ Ơn cứu mệnh, hỏi tên họ Lý Bạch rồi từ giả.
Lúc bấy giờ nơi hoàng cung đến mùa hoa mẫu đơn đua nở, khoe sắc đủ màu. Giống hoa này là giống hoa Mộc thược dược của nước Dương Châu đem cống hiến, gồm có 4 thứ là : Đại Hồng, Thâm Tử, Thiển Hồng và Thông Bạch.
Vua Huyền Tôn truyền dời những hoa ấy đến điện Trầm Hương để ngắm cung phi, thưởng hoa dưới nguyẹt, lại đòi bọn đệ tử Lê Viên đến đó hòa nhạc cho vui.
Tuy nhiên, vì chán nghe những bản nhạc cũ, nên nhà vua phán rằng :
— Ngắm cung phi, thưởng danh hoa, không nên nghe những khúc cổ nhạc nhàm tai mãi.
Vua truyền cho một con hát có danh tên là Là Quy Niên đến triệu thỉnh Lý Bạch vào cung.
Là Quy Niên tìm mãi mới gặp Lý Bạch đang say mèm trong quán rượu, và đang ngâm thơ :
Tam bôi thông đại đạo
Nhất đẩu họp tự nhiên
Đản đắc tửu trùng thú
Vật vi tỉnh giả truyền
Nghĩa là :
Ba chung rành đạo lớn
Một đấu hợp tánh thiêng
Say sưa trong thú rượu
Còn hơn kẻ tỉnh điên.
Giọng thơ ran rản bên ngoài, Là Quy Niên biết đúng là Lý Bạch, vội lần vào quán và truyền mệnh lệnh của Huyền Tôn :
— Thưa học sĩ, Thánh thượng va Quý Phi hiện đang ngự tại điện Trầm Hương, dạy đòi học sĩ đến để đàm đạo, xin học sĩ đi ngay cho.
Lý Bạch không đáp, trợn đôi mắt đỏ ngầu nhìn Là Quy Niên rồi ngâm tiếp một đoạn thơ của Đào Uyên Minh, cùng một giòng ma rượu :
Ngã túy dục miên, quân thả khứ
Nghĩa là :
Ta say thích ngủ, đừng ai đến
Ngâm xong, Lý Bạch nhắm mắt ngủ li bì, chẳng kể gì đến lệnh vua chúa gì hết...
Là Quy Niên thấy thế cười ngặt nghẽo, gọi năm bảy tên tùy tùng leo lên lầu khiêng Lý Bạch xuống, đặt lên yên ngựa, đỡ hai bên, để cho ngựa chở thẳng về lầu Ngũ Phượng. Xong vào báo cho vua Huyền Tôn rõ.
Vua Huyền Tôn đặc cách cho phép Lý Bạch được đi ngựa thẳng vào Trầm Hương, rồi cùng với Phi Tử lên lầu nhìn xuống thấy Lý Bạch ngồi ngất ngưỡng trên lưng ngựa, xiêu bên này, vẹo bên kia, ai trông thấy cũng phải tức cười.
Vào đến điện Trầm Hương, Lý Bạch nằm vật trên long khảm mắt nhắm híp, miệng chảy đầy nước dãi... Nhà vua xem thấy động lòng, vội lấy áo long bào lau cho đứa con cưng của “Nàng thơ”.
Phi Tử tâu :
— Muôn tâu, thần thiếp nghe người ta nói nước lạnh có thể dùng giải rượu được.
Vua nghe nói liền sai thị vệ đem nước lạnh đến giải rượu cho Lý Bạch. Quả nhiên, vừa uống cạn ly nước, Lý Bạch tỉnh rượu ngay, vội vàng quà mọp xuống đất tạ tội.
Nhà vua đỡ Lý Bạch dậy và nói :
— Nay trẫm cùng Phi Tử thưởng hoa, muốn có một khúc nhạc tân kỳ, vậy nên triệu khanh đến để viết khúc ca chương thanh bình điệu.
Thấy văn phòng tứ bảo đã đặt sẵn trước mặt, Lý Bạch liền cầm bút thảo ngay :
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng
Nhược phi quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng giao đài nguyệt hạ phùng.
Nghĩa là:
Mây vờn như áo, hoa như mặt
Sương đượm hơi xuân, lướt bóng hoa.
Quần ngọc đầu non bằng chẳng thấy,
Cung giao ngỡ tưởng bóng trăng tà...
Và:
Nhất chi hồng diểm lệ ngưng hương,
Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán Cung thùy đắc tự ?
Khả lân Phi yến ỷ tân trang !
Nghĩa là:
Một cành hồng thắm đượm hơi hương,
Mưa gió non vu luốn đoạn trường.
Hỏi thử Hán Cung ai dám sánh ?
Khá thương Phi Yến chốn Tân trang !
Và:
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Tường đắc quân vương đới tiếu khan...
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm hương đình bắc ỷ lan can.
Nghĩa là:
Hương trời, sắc nước gợi vui tươi,
Tửu mến quân vương hé nụ cười...
Gió thoảng hơi xuân vô hạn hận,
Trầm hương đứng ngắm tựa lan can.
Lý Bạch viết xong dâng lên, Huyền Tôn xem thấy tình ý tuyệt trần, trong lòng phơi phới, truyền cho Là Quy Niên theo điệu mà hát.
Quý Phi lạy tạ Ơn vua đã chiếu cố đến mình.
Huyền Tôn ói :
— Không phải tạ Ơn trẫm, khanh nên tạ Ơn Học sĩ mới phải.
Quý Phi lấy ve vàng chén ngọc rót đầy ly rượu, sai cung nữ đưa mời Lý Bạch.
Từ đó trong cung lúc nào có yến tiệc cũng mời Lý Bạch đến. Quý Phi yêu mến Lý Bạch khác thường, mối tình tài tử giai nhân chớm nở cũng như sợi dây oan nghiệt nghìn đời ràng buộc mãi với kiếp người tài hoa.
Lẽ ra có thể làm đổ nước nghiêng thành đi được, song Lý Bạch lại là người chỉ thích có rượu thơ, đâu có tham vọng những mùi vinh hoa phú quý. Nhà thi sĩ tài hoa kia lạnh nhạt trước mối tình thầm kín của Quý Phi. Còn Quý Phi yêu mà không được người ta yêu lại, bực tức đến nỗi sanh ra thù oán. Sự đời là thế, chữ yêu đổi ra chữ oán không mấy hồi.
Lúc bấy giờ trong triều có Cao Lực Sĩ là hạng rắn độc, trong lòng ấp ủ mối thù với Lý Bạch bắt y tháo giày thuở nọ, nên thăm dò biết được mối tình tuyệt vọng của Đào Quý Phi có thể dùng làm lợi khí cho hắn phun độc dược, liền thừa cơ hội ấy dèm pha rằng :
— Theo ngu ý của kẻ hèn này thì ba bài bình điệu của Lý Bạch lẽ ra Nương Nương phải oán ghét lắm mới phải, cớ sao Nương Nương lại ngợi khen đến thế ?
Quý Phi hỏi :
— Tại sao mà nhà ngươi lại cho là phải oán ghét ?
Cao Lực Sĩ rót nhẹ ly rượu vào gói thuốc độc rồi nói :
— Tâu lệnh bà, câu : “Khả lân Phi Yến ỷ tân trang” nó hàm một nghĩa châm biếm vô cùng.
Chắc Nương Nương cũng rõ nàng Triệu Phi Yến thuở xưa là bậc Hậu Phi của vua Thành Đế, được nhà vua quà chuộng hơn cả. Phi Yến lại sai mê Sích Phượng và cùng người ấy tư thông. Chẳng may vua Thành Đế biết được, bắt gặp Sích Phượng trong tủ áo, đem giết ngay trước mặt Phi Yến. Nay Lý Bạch đem Phi Yến sánh với Nương Nương thì đó là một lời nhạo báng rất bóng bẩy. Xin Nương Nương xét k˛ !
Thuở ấy Quý Phi có nuôi chàng An Lộc Sơn làm con nuôi trong tư cung. An Lộc Sơn với Quý Phi ngang tuổi nhau, thế mà Quý Phi ngày hai ba lần thân hành tắm rửa cho đứa “con cưng” ấy trước mặt vua Huyền Tôn, mà vua Huyền Tôn cũng không nói gì cả. Thật Quý Phi còn tệ hơn nàng Phi Yến thuở trước.
Cao Lực Sĩ khéo châm ngòi, đốt lửa, gây vào lòng Quý Phi một mối hận thù với Lý Bạch, nên Quý Phi tâu với Huyền Tôn rằng Lý Bạch ngạo nghễ, không giữ lễ quân vương.
Bắt đầu từ đó, các cuộc yến ẳm trong cung không mời Lý Bạch vào nữa. Và Huyền Tôn cũng không hỏi Lý Bạch về việc triều chính nữa.
Lý Bạch cảm thấy lòng yêu chuộng của Huyền Tôn mỗi lúc một lạt lẽo lần, đoán biết Cao Lực Sĩ mưu hại, và Quý Phi cố báo thù, nên nhiều lần tâu xin đi nơi khác, nhưng vua Huyền Tôn cố cầm ở lại.
Lý Bạch buồn bã, càng ngày càng dầm mình sống trong bể rượu, không thiết tha đến việc đời nữa. Cả đến người vợ của Lý Bạch ở tại Cẩm Thành là Hứa phu nhơn, cũng không bao giờ được Bạch tưởng đến. çi “Phòng không lặng ngắt như tờ, ngựa ai thấp thoáng lờ mờ hơi sương”. Hứa phu nhơn trông tin mòn mỏi mà chẳng thấy Lý Bạch đâu !
Trong các bợm rượu thân tín với Lý Bạch thời ấy là Hạ Tri Chương, Là Thích Chi, Nhữ Dương, Vương Kiến, Thôi Tông Chi, Tô Tấn, Trương Bậc, Tiêu Thại, thường hay say sưa ngả ngớn mà người ta gọi là “ẳm trung bát tiên”.
Một hôm tốt trời, vua Huyền Tôn truyền đòi Lý Bạch vào cung để phóng thích con “Phượng Hoàng muôn thưở” ấy về với đồng nội cỏ hoa cho thỏa lòng ao ước.
Huyền Tôn có đôi lời an ủi :
— Trẫm thấy khanh tài năng lỗi lạc, tánh tình lại thanh bạch nên đem dạ mến yêu. Nay trẫm tạm cho khanh được vinh quy, vậy khanh có cần thứ gì trẫm sẽ ban cấp cho.
Lý Bạch tâu :
— Hạ thần không cần gì cả, ngoài một món tiền để uống rượu thôi.
Vua Huyền Tôn hạ chiếu, truyền rao khắp nơi, cho phép Lý Bạch đến đâu uống rượu không phải trả tiền. Số tiền ấy sẽ do ngân khố thanh toán.
Nhà vua lại ban thêm vàng bạc, đai y và cấp 12 đứa tùy tùng theo hầu Lý Bạch.
Lý Bạch cúi lạy tạ Ơn và nghĩ rằng :
“Vì vua này quả có đôi mắt xanh tương đối vậy”.
Huyền Tôn lại thân cắm hai đóa hoa vàng trên mũ Lý Bạch rồi truyền nội thị đỡ Bạch lên ngựa trước ngai vàng, đưa ra khỏi triều môn. Đó là một ân huệ đặc biệt đối với các vua nước Tàu thời ấy.
Các quan đưa đón, rượu tiễn lời chào từ Trường An đến mười dặm đường chưa dứt.
Chỉ có thái sư và thái úy, hai người lánh mặt, ngồi nhà hả hê sung sướng, khen ngợi diệu kế của mình đã khéo “tống cổ” được tên “thi sĩ cứng đầu” ra khỏi triều để dễ bề thao túng.
Hạ Tri Chương và cả bợm rượu đều đưa Lý Bạch ngoài trăm dặm, viết đến hơn trăm bài thơ tống biệt mà vẫn chưa cạn tâm tình.
Lý Bạch đi rồi, Hạ Tri Chương cảm thấy lòng mình hiu quạnh như mất một cái gì không bao giờ còn tìm thấy nữa.
Có lẽ trong đời nghệ sĩ của Lý Bạch, chỉ có Hạ Tri Chương là người yêu Bạch nhứt.
Trên đường về, tuy Bạch cảm thấy vui với cỏ nội, mây ngàn, tìm lại những cái gì xa xưa đã mờ khuất, song cũng không khỏi bồi hồi, nhớ đến Hạ Tri Chương người bạn tâm giao, cảm nghĩa cùng nhau nhưng yêu nhau không trọn.
Ngày kia, Lý Bạch về đến Cẩm Châu, gặp lại Hứa phu nhơn, vợ chồng tương mến, duyên cầm sắt lại giao hòa, nối lại tiếng đàn xưa trong tâm hồn thi sĩ.
Các bè bạn xa gần trên đất Thục, chiều sớm lân la, rượu thơ túy lúy. Thật là một cảnh an nhàn.
Thế mà : “Nửa năm hương lửa đang nồng, trượng phu thoắc đã động lòng bốn phương”. Cho hay con chim trời không bao giờ chịu đậu một nơi, dù nơi đó là nơi cảnh đẹp hoa tươi, suối ca, gió hát.
Một sớm tinh sương, Lý Bạch tỏ ý với vợ muốn đi du ngoạn sơn thủy. Mặc dầu Hứa phu nhơn nghe nói cũng buồn lòng, nhưng nàng đâu phải là chiếc lòng son có thể nhốt được loài chim trời cuồng vọng ấy được, đành sửa soạn cuộc chia phôi.
Lần này ra đi, Lý Bạch không xúng xính mũ cao, áo rộng của chức Học sĩ nữa, mà chỉ ăn mặc theo lối thư sinh, hay nói cho đúng hơn là một gã học trò nghèo, chỉ đem theo một thằng đồng tử con con và cỡi một con ngựa ôm ốm, và như thế cũng đã phong lưu chán rồi.
Một hôm, Lý Bạch đi đến huyện Hoa Ñm. Tiếng đồn quan huyền này là một vị quan tham ô nhũng lạm, mọt nước, hại dân. Lý Bạch định ý “sửa lưng” tên quan chức mục nát ấy.
Bạch đến trước huyện, cho ngựa đi thẳng vào cổng, đánh ba hồi trống làm như không biết huyện quan đang xét việc nơi công đường.
Huyện quan nghe có tiếng trống đổ hối hả thất kinh tưởng là giặc đến, dớn dác muốn tìm đường tẩu thoát. Sau biết rõ giận lắm, sai lính lệ xuống lôi cổ Lý Bạch lên công đường hạch hỏi.
Lý Bạch giả say, không đáp. Quan huyện truyền đem tống cổ tên bợm rượu ấy vào lao để chờ truy cứu.
Khi Lý Bạch vào lao được một lúc thì thấy một tên lính lệ mang mực, giấy đến vất vào mặt bảo phải cung khai đầu đuôi câu chuyện, nếu không thì đánh chết.
Lý Bạch mỉm cười, cầm bút viết một hồi :
“Ta là Lý Bạch, quê ở Cẩm Châu, nhỏ tuổi, rộng văn chương vung bút giết loài nịnh, Trường An gọi bát tiên, Trúc Khê xưng Lục Dật; thảo chiếu trừ Phiên quốc, Điện ngọc tự do vào uống rượu mà giải trí, Kim loan chỗ nghỉ ngơi, canh nóng có vua khuấy, dãi chảy áo vua lau, Dương thái sư mài mực, Cao thái úy tháo giày. Trước sân rồng Hoàng Đế còn cho ta cỡi ngựa, huống chi tại huyện Hoa Ñm các ngươi lại buộc ta không được cỡi lừa ư ?”
Viên chủ ngục xem xong lời cung, mình mẩy rụng rời, tay chân run lập cập, vội vã quỳ xuống tạ tội.
Lý Bạch nói :
— Việc này không can hệ gì đến nhà ngươi đâu. Nhà ngươi hãy mau đến công đường nói cho quan huyện biết rằng ta vâng chỉ Hoàng Thượng đến đây để tra xét tội tham ô của hắn, sao hắn lại dám bắt ta hạ ngục ?
Viên chủ ngục vội vã mang tờ cung khai đến trình lên tri huyện và thuật lại những lời Lý Bạch vừa nói.
Tri huyện khiếp vía nắm tay tên chủ ngục chạy thẳng đến lao xá, bắt từ bên ngoài lạy vào, rên rỉ xin Lý Bạch dung tha cho đứa ngu hèn.
Các phủ huyện quanh vùng nghe tin lập tức đến nơi chào mừng Học sĩ và mời Học sĩ thăng thính đường để xin những lời chỉ giáo.
Lý Bạch lấy lời liêm chánh răn dạy mọi người, ai nấy đều vui vẻ nghe theo.
Từ đấy Lý Bạch đi đến đâu, các tham quan, ô lại nể mặt không dám hành hạ dân lành như trước nữa.
Kế một thời gian sau đó An Lộc Sơn — đứa con nuôi của Quý Phi — nổi loạn, tụ tập một số cường đố cướp bóc Trường An. Vua Huyền Tôn phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục, giết thái sư Dương Quốc Trung trước mặt ba quân, và thắt cổ Quý Phi tại gò Mã Ngôi; mặc dầu những giòng lệ chảy ước long bào, ông vua đa tình kia cũng phải buộc lòng dứt bỏ lời thề trong đêm thất tịch “tại thiên nguyện tác tị dự điểu, tại địa nguyện vi liên là chí” : “Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”.
Khúc trường hận của Huyền Tôn đã được nói lên trong lời văn thiết tha bi đát của nhà thi sĩ áo xanh “Giang Châu Tư Mã” với nỗi hận lòng gởi gắm niềm riêng.
Lý Bạch lúc ấy tránh loạn ẩn tại Lư Sơn. Vĩnh Vương Lân lúc bấy giờ lại làm Tiết độ sứ quản thủ cả vùng đông nam nước Tàu.
Vì thấy Huyền Tôn rời bỏ kinh đô, thiên hạ đại loạn, nên ý cũng muốn “thừa cơ một thưở” bèn sai sứ giả đến triệu Lý Bạch về giữ lại trong quân để bàn việc “đại kế”.
Chẳng bao lâu con trai của Huyền Tôn là Túc Tôn lên ngôi kế vị, phong Quách Tử Nghi làm nguyên soái thống lãnh đại lịnh. Túc Tôn nghe Vĩnh Vương Lân có ý tạo phản bèn xuống chiếu sai Quách Tử Nghi đến vấn tội.
Khi ấy nội bộ của An Lộc Sơn bị nổi loạn : An Lộc Sơn bị đứa con trai giết đi để tiếm ngôi rồi chẳng bao lâu, đứa con trai của An Lộc Sơn lại bị một tên cận thần phản phúc giết đi để đoạt quyền; do đó, chỉ trong một thời gian ngắn bọn loạn quân này tan rã, và nhà Đường thu lại được cả hai tỉnh.
Được rảnh tay, Quách Tử Nghi đem quân đánh Vĩnh Vương Lân. Tên phản phúc này bị cô thế bỏ trốn, bị một tên quân canh bắt được giải đến viên môn.
Còn Lý Bạch thì gặp lại được Quách Tử Nghi, đưa Lý Bạch về triều tâu cùng vua Túc Tôn, nói rõ tài năng lỗi lạc của Lý Bạch và xin Túc Tôn trọng dụng.
Túc Tôn liền xuống chiếu phong cho Lý Bạch làm Tã thập di, nhưng Lý Bạch một mực từ chối không nhận.
Từ đó, Lý Bạch một thuyền một lá, thửng thờ sớm bãi chiều gành, rồi đến Kim Lăng, than thở cho những sự phế hưng diễn biến không ngừng :
“Trùng thu viễn cận thiên quan chủng, hòa thử cao đê lục đại cung”.
Trong óc nhà thơ say ấy có những mối cảm hoài gì trong thế sự ?
Một đêm, khi thả thuyền đến ven sông Thái Thạch, trăng tỏ sao thưa gió hòa nhè nhẹ, vàng trăng lơ lửng trên không như gieo vào lòng người một mối vô tư, xóa nhòa những cái gì còn nặng vấn vương trong trần tục, Lý Bạch đắm mình trong khung cảnh ấy, ngồi trầm lặng nơi đầu thuyền, uống rượu, uống cả vừng trăng, “rượu say, say cả vừng trăng dịu hiền”.
Vừng trăng rung rinh đáy nước, rung rinh trong lòng chén, thấm sâu vào tiềm thức siêu thần, Lý Bạch thấy mỗi sợi tóc mình biến thành một vành trăng ngời ngợi sáng... trong phút mê ly, Lý Bạch nhảy xuống dòng sông, ôm mảnh trăng rung rinh tan vở... để trở về nơi cảnh tiên bồng...
Thôi thế là hết một đời tài hoa trên trần tục.
Bạch ra đi... đi mãi không bao giờ còn trở về với Hứa phu nhơn nữa.
Từ đấy Hứa phu nhơn thẩn thơ với gió sớm mây chiều, ôm nửa vầng trăng vạn thuở mà nằm mơ trong giấc mộng hồn...
xàm!
Trả lờiXóa