... hu28m, tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn xếp, vai mang nải hoa ...

...

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2007

Ai yêu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh...

Khi sắp đi xa, trong Di chúc, Bác “để lại muôn vàn tình thân yêu cho các cháu thanh niên và nhi đồng”....

Những ngày kỷ niệm Quốc tế thiếu nhi 1-6, Tết Trung thu, Ngày khai trường hoặc mỗi khi các cháu làm được những việc tốt, đạt thành tích xuất sắc, Bác thường có thư khen ngợi, tặng quà, tặng danh hiệu cháu ngoan Bác Hồ. Các cháu gặp hoàn cảnh khó khăn, Bác gửi lời thăm hỏi ân cần và gửi quà động viên. Riêng về thơ, Bác có tới 16 bài thơ viết cho thiếu nhi, cả chữ Việt và chữ Hán.

Thơ viết cho thiếu nhi của Bác Hồ là những lời tâm huyết, là tình thương yêu sâu sắc, thắm thiết đối với các cháu, là vẻ đẹp của một tâm hồn rộng mở, cao cả, nhân văn tìm đến lớp người trong trắng, non trẻ nhạy cảm để mở hướng đi. Năm 1941, 1942 sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác viết một loạt bài thơ kêu gọi các tầng lớp, trong đó có thiếu nhi, tùy theo sức của mình, cùng toàn dân cứu nước, cứu nhà.

Trẻ em như búp trên cành...

Hai bài thơ Kêu gọi thiếu nhiTrẻ chăn trâu là hai bài thơ đầu tiên Bác viết cho thiếu nhi bằng thể thơ lục bát truyền thống. Các cháu thiếu nhi và ngay cả người lớn đọc, ai cũng hiểu, thấm thía và xúc động. Mở đầu bài Kêu gọi thiếu nhi là những lời lẽ giản dị, thực tế và chan hoà tình yêu thương “Trẻ em như búp trên cành / Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan / Chẳng may vận nước gian nan / Trẻ em cũng phải lầm than cực lòng / Học hành giáo dục đã không / Nhà nghèo lại phải làm công cày bừa / Sức còn yếu, tuổi còn thơ / Mà đã khó nhọc cũng như người già / Có khi lìa mẹ, lìa cha / Để làm tôi tớ người ta bên ngoài" thì rõ là những lời từ trái tim đến với những trái tim, những lời cho thiếu nhi mà cũng cho tất cả mọi người.

Bác nói những điều mắt thấy tai nghe, một thực tế hiển nhiên về cảnh cơ cực lầm than của trẻ em khi vận nước gian nan. Từ đó, Bác đặt câu hỏi: Vì ai? "Vì ai nên nỗi thế này? Vì ai ta phải…" và Bác chỉ đích thị: “Vì giặc Nhật giặc Tây bạo tàn / Khiến ta mất nước nhà tan / Trẻ em cũng bị cơ hàn xót xa”, “Ấy là vì Nhật, vì Tây / Ra tay vơ vét đọa đầy chúng ta / Làm cho tan cửa nát nhà / Trẻ con vất vả người già đắng cay”.

Bác gợi mở, dắt dẫn cụ thể đi sâu vào lòng con trẻ, từng bước mở rộng nhận thức, suy nghĩ, cắt nghĩa nguyên nhân để đi đến vận động, giáo dục, giác ngộ các cháu phải làm gì: "Vậy nên trẻ em nước ta / Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh / Người lớn cứu nước đã đành / Trẻ em cũng góp phần mình một tay" rồi Bác kêu gọi các cháu hăng hái, tự nguyện tham gia Hội nhi đồng cứu quốc, một tổ chức của Mặt trận Việt Minh “Nhi đồng cứu quốc hội ta / Ấy là lực lượng, ấy là cứu tinh / Ấy là bộ phận Việt Minh / Dân mình khắc cứu dân mình mới xong". Hai bài thơ Kêu gọi thiếu nhiTrẻ chăn Trâu đã trở thành dấu mốc quan trọng của thơ ca Việt Nam viết về thiếu nhi từ trước đến bây giờ, thức tỉnh mọi người, nó thực sự đem đến nội dung mới mẻ thiết thực, một tình thương yêu bao la, một trách nhiệm to lớn đối với thế hệ trẻ.

Thương yêu thiếu niên, nhi đồng là tình cảm thường trực trong Bác. Trong gian khổ và anh dũng của hai cuộc trường kỳ kháng chiến, trung thu trăng sáng, Bác bộc bạch chân thành tình cảm của Bác đối với các cháu: Trung thu trăng sáng như gương /Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng / Sau đây Bác viết mấy dòng / Gửi cho các cháu tỏ lòng nhớ nhung. Năm 1956, Bác cùng Bác Tôn Gửi các cháu thiếu nhi Trường Hoàng Lệ Kha và tất cả các cháu niềm Nam lòng thương nhớ, mong mỏi: Bắc Nam sẽ sum họp một nhà / Bác cháu ta gặp mặt; trẻ già vui chung / Nhớ thương các cháu vô cùng / Mong sao mỗi cháu là một anh hùng thiếu nhi. Đây là lời thắm thiết chân tình của người ông đối với các cháu, của người trên đối với trẻ nhỏ, của người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước đối với thế hệ tương lai. Với tất cả tấm lòng nhân ái bao la và sự tin cậy cao độ, Bác tự nhận, tự khẳng định quả quyết Ai yêu nhi đồng / Bằng Bác Hồ Chí Minh (Thư Trung thu – 1952).

Qua thơ Bác đặt niềm tin, ân cần khuyên nhủ, nhẹ nhàng chỉ bảo “tuổi nhỏ làm việc nhỏ. Tùy theo sức của mình”; biểu dương, khen ngợi kịp thời khi các cháu đạt thành tích xuất sắc, một hình thức giáo dục nêu gương, một cách nhân điển hình hiệu quả nhất. Bác chăm lo, dạy dỗ các cháu từ việc nhỏ đến việc lớn “Các cháu phải chăm ngoan, ở nhà phải nghe lời bố mẹ, đi học phải siêng năng, đối với thầy phải kính trọng, lễ phép, đối với bạn phải đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau”, “Giữ kỷ luật, chớ tự do phóng túng vì tự do phóng túng là không tốt”,phải biết gắng, gắng giúp đỡ thương binh và gia đình các chiến sĩ”, “phải yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu lao động”, “phải thật thà, dũng cảm”, “việc gì có ích cho kháng chiến, có ích cho Tổ quốc thì các cháu nên gắng sức làm. Tuổi các cháu còn nhỏ. Nhiều công việc nhỏ cộng lại thành công việc to”, “Mong các cháu mai sau lớn lên thành những người dân xứng đáng với nước độc lập, tự do” (2)…

Năm điều Bác dạy khắc cốt, ghi tâm

Sau này, Bác kết lại thành thơ “Mong các cháu cố gắng / Thi đua học và hành / Tuổi nhỏ làm việc nhỏ / Tuỳ theo sức của mình / Đi tham gia kháng chiến / Để gìn giữ hòa bình / Các cháu hãy xứng đáng / Cháu Bác Hồ Chí Minh” (Thư Trung Thu – 1952). Những bức thư, những bài thơ Bác gửi cho các cháu đều có những yêu cầu cụ thể, phù hợp với yêu cầu cách mạng, gắn chặt với tình hình đất nước, đúng với hoàn cảnh, việc làm, tâm lý lứa tuổi của các cháu, nội dung giáo dục rất sâu mà lại dễ hiểu, thuộc ngay, làm ngay được. Vào những năm 1960, 1961, xuất phát từ tình hình mới và trên cơ sở tổng kết các điều đã dạy, đã khuyên, Bác đúc kết thành năm điều: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Năm điều Bác Hồ dạy đã trở thành tiêu chuẩn đạo đức của trẻ em Việt Nam phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện để trở thành cháu ngoan Bác Hồ.

Những lời dạy bảo, những bức thư, những bài thơ của Bác không chỉ có tác dụng đối với các cháu mà còn giúp cho các nhà giáo dục trẻ em rút ra được phương pháp giáo dục thế nào để đem lại kết quả tốt nhất. Bác nói: “Giáo dục thiếu nhi là một vấn đề khoa học”, Bác khuyên người lớn và các nhà giáo dục trẻ em phải nắm được tâm lý trẻ em, những điều cần dạy và cách dạy trẻ em “cách dạy phải nhẹ nhàng, đừng dạy các em trở thành những ông cụ non. Đối với trẻ em phải giáo dục như thế nào cho các cháu biết đoàn kết, ham học, ham làm, nhưng phải làm sao cho trẻ có kỷ luật nhưng vẫn vui vẻ hoạt bát chứ không phải khúm núm đặt đâu ngồi đấy”.

Bác đặc biệt nhấn mạnh, điều quan trọng nhất là người giáo dục trẻ em phải là tấm gương sáng cho các em noi theo: “Trẻ em hay bắt chước cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách phải gương mẫu, từ lời nói đến việc làm. Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”. Bác chỉ thị công việc giáo dục trẻ em là công việc không phải chỉ một số người trực tiếp giáo dục trẻ em mà phải là công việc của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội.

Bác dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Bác thực sự gương mẫu thực hiện hai lợi ích trồng cây và trồng người. Mỗi khi các cháu đạt thành tích xuất sắc, dù bận trăm công nghìn việc của cách mạng, của Đảng, của Nhà nước, Bác vẫn không quên biểu dương, khen ngợi các cháu kịp thời. Bác tặng vở học cho cháu Nông Thị Trưng, một cháu bé dân tộc thiểu số chăm học, chăm làm, Bác lại còn có thơ nữa: “Vở này ta tặng cháu yêu ta / Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là / Mong cháu ra công mà học tập / Mai sau cháu giúp nước non nhà”. Bác mong muốn các cháu trước nhất là học tập tốt. Hầu như thư nào Bác cũng nhắc điều này “Mong các cháu cố gắng / Thi đua học và hành”, “Thi đua học hành / Tiến bộ mau lẹ”.

Trong một bài thơ viết năm 1946, Bác mong “Bác mong các cháu “cho ngoan” / Mai sau gìn giữ giang san Lạc Hồng / Sao cho nổi tiếng tiên rồng / Sao cho tỏ mặt nhi đồng Việt Nam”. Để giáo dục và khích lệ các cháu, Bác thường nêu những tấm gương điển hình của thiếu nhi trong lịch sử và trong đời sống cụ thể hàng ngày. Bác nêu gương cậu bé Làng Gióng, nêu gương anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản (Lịch sử nước ta). Bác gửi lời khen bằng thơ đến cháu Phạm Đỗ Hải, một liên lạc viên bị giặc bắt đã dùng mưu trốn thoát, lại còn tuyên truyền, dụ được hai lính Tây ra hàng, Bác khen cháu Lê Văn Trực dũng cảm một mình bắt sống được giặc (tặng hai cháu liên lạc trong bộ đội quân khu II).

Bác khen cháu “Nguyễn Thị Tứ, 13 tuổi, cõng bạn đi học suốt ba năm. Cháu Đặng Văn Kiên, 7 tuổi, đã cứu hai bạn khỏi chết đuối. Cháu Nguyễn Trọng Thể, 6 tuổi, nhiều lần nhặt được của rơi trả lại…” (Bài nói tại lễ kỷ niệm lần thứ 35 Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, 25.3.1966). Trước ngày đi xa, Bác còn kịp viết thư khen ngợi, động viên các cháu thiếu nhi Hợp tác xã Măng non, thôn Phú Mẫm, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc về thành tích đóng góp cho hợp tác xã: “Bác rất vui lòng biết các cháu vừa học tập tốt, vừa tham gia sản xuất tốt… như thế là rất tốt. Các cháu tuy tuổi còn nhỏ, cũng có thể làm những việc ích nước, lợi dân. Các cháu là những người chủ tương lai của nước nhà, của Hợp tác xã”.

Từ những bức thư, bài thơ của Bác gửi cho thiếu nhi, cho chúng ta thấy một điều hết sức lớn lao, Bác Hồ với một tình thương yêu bao la, một tầm nhìn sâu rộng, là người đầu tiên phát hiện và chỉ ra vai trò của thiếu nhi trong sự nghiệp cứu nước và xây dựng đất nước và cũng là lần đầu tiên khẳng định thiếu nhi là lực lượng cách mạng trong công cuộc giải phóng đất nước, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ ngày Bác đi xa, lớp trước tiếp lớp sau, lớp này qua lớp khác, các cháu thiếu nhi tiếp tục phấn đấu theo Năm điều Bác Hồ dạy, noi theo tấm gương oanh liệt, anh hùng Kim Đồng, Vừ A Dính, Lê Văn Tám, Nguyễn Bá Ngọc…, hàng triệu các cháu trong phong trào nghìn việc tốt đã đạt danh hiệu cháu ngoan Bác Hồ, các cháu rất xứng đáng cháu Bác Hồ Chí Minh như Bác hằng mong muốn. Ở Việt Nam cặp từ Bác – cháu, Bác Hồ – thiếu nhi đi liền nhau, trở thành một cặp từ song hành. Sẽ còn mãi mãi tình thương yêu của Bác Hồ với thiếu nhi: Ai yêu các nhi đồng / Bằng Bác Hồ Chí Minh. Và, mãi mãi vang lên như một lời bài hát thiếu nhi Việt Nam kính yêu Bác Hồ: “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh / Hơn chúng em nhi đồng / Ai yêu Bác Hồ Chí Minh / Hơn thiếu nhi Việt Nam”...

Theo Lê Xuân Đức - website Đảng Cộng sản Việt Nam




Kêu gọi thiếu nhi

Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan
Chẳng may vận nước gian nan
Trẻ em cũng phải lầm than cực lòng
Học hành giáo dục đã không
Nhà nghèo lại phải làm công cày bừa
Sức còn yếu, tuổi còn thơ
Mà đã khó nhọc cũng như người già
Có khi lìa mẹ, lìa cha
Để làm tôi tớ người ta bên ngoài
Vì ai nên nỗi thế này?
Vì ai ta phải…
Vì giặc Nhật giặc Tây bạo tàn
Khiến ta mất nước nhà tan
Trẻ em cũng bị cơ hàn xót xa
Ấy là vì Nhật, vì Tây
Ra tay vơ vét đọa đầy chúng ta
Làm cho tan cửa nát nhà
Trẻ con vất vả người già đắng cay
Vậy nên trẻ em nước ta
Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh
Người lớn cứu nước đã đành
Trẻ em cũng góp phần mình một tay
Nhi đồng cứu quốc hội ta
Ấy là lực lượng, ấy là cứu tinh
Ấy là bộ phận Việt Minh
Dân mình khắc cứu dân mình mới xong


Thứ Hai, 24 tháng 9, 2007

Hoa xuân ca

Hoa xuân ca
Sáng tác: Trịnh Công Sơn

Cây sẽ cho lộc và cây sẽ cho hoa
Em cứ bay trong đời dịu dàng như cơn gió
Em cứ bay nhưng đừng bỏ lại tôi một mình
À á a á a a à À á á a à á a
Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa
Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ

Cây sẽ cho lộc và cây sẽ cho hoa
Em hãy yêu con người ngọt ngào đời vẫn thế
Em hãy dâng cho đời một nụ hoa tình cờ
Ờ ớ ơ ớ ơ ơ ờ Ờ ớ ờ ớ ơ
Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa
Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ

Cây sẽ cho lộc và cây sẽ cho hoa
Xuân đến bên kia đồi trời mở ra cánh én
Em đến bên tôi ngồi đời mở ra cuộc tình
À á a á a a à À á á a à á a
Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa
Em líu lo bên đời dạy tôi biết xa gần

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2007

Hành lộ nan - Lý Bạch

Hành lộ nan

Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên
Ngọc bàn trân tu trị vạn tiền
Đình bôi đầu trợ bất năng thực
Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên
Dục độ Hoàng Hà băng tắc xuyên
Tương đăng Thái Hàng tuyết ám thiên
Nhàn lai thuỷ điếu toạ khê thượng
Hốt phục thừa chu mộng nhật biên
Hành lộ nan! Hành lộ nan
Đa kỳ lộ, kim an tại?
Trường phong phá lãng hôi hữu thì
Trực quải vân phàm tế thượng hải.


Đường đi khó

Đũa vàng chén ngọc vạn một đấu
Thức ngon nhắm quí giá mười ngàn
Dừng chén,ném đũa,nuốt không được
Tuốt kiếm nhìn quanh lòng mênh mang
Muốn vượt Hoàng Hà sông băng đóng
Toan lên Thái Hàng núi tuyết phơi
Rảnh rỗi buông câu bờ khe biếc
Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mặt trời.
Đường đi khó ! Đường đi khó !
Nay ở đâu ? Đường bao ngả ?
Cưỡi gió phá sóng hẳn có ngày
Treo thẳng buồm mây vượt biển cả.
Dịch: khuyết danh


Tiểu sử

Lý Bạch (701- 762) là nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung, được hậu bối tôn làm Thi Tiên.

Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều.

Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng.

Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Hàn Quốc mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài.

Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...

Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời Vãn Đường nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".

Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...).



Truyện đời - Truyện người

Tại huyện Châu Cẩm tỉnh Tứ Xuyên, đời vua Huyền Tôn nhà Đường có một người đàn bà nằm mộng thấy sao Trường Canh sa vào mình, thọ thai sanh đặng một đứa con trai giòng họ Lý. Vì sao Trường Canh có tên là Thái Bạch, cho nên bà đặt tên con bà là Lý Bạch, hiệu là Thái Bạch.


Lý Bạch mới lên mười tuổi mà dung nhan phong nhã, cốt cách phi phàm, lại có tinh thông thư sử, xuất khẩu thành thơ, ai ai đều cho Lý Bạch là một vì tiên giáng thế. Do đó mọi người gọi Lý Bạch là Là Trích Tiên ; và Lý Bạch cũng tự đặt cho mình biệt hiệu là Thanh Tiên cư sĩ.

Con người đã vậy, thích gì đến công danh phú quý, Lý Bạch trọn đời ngâm thơ, uống rượu, du ngoạn khắp nơi, nghe chỗ nào có rượu ngon thì lần tới.

Tại Hồ Châu, quận Ô Tình đồn có rượu rất ngon, Lý Bạch chẳng quản đường xa ngàn dặm, lần tới, lên lầu gọi rượu đến uống say mèm.

Lúc đó, Tư mã Hồ Châu tên Già Diệp đi qua, nghe trên lầu có giọng ngâm thơ sang sảng, bèn cho người dò hỏi xem ai ?

Lý Bạch đáp lại bằng 4 câu thơ như vầy :

Thanh Tiên cư sĩ trích tiên nhân,
Tửu tứ đào danh tam thập xuân
Hồ Châu Tư Mã hà tu vấn... ?
Kim túc như lai thị hậu thân.


Nghĩa là:

Thanh Tiên cư sĩ ấy người tiên,
Với tuổi ba mươi rượu lại ghiền.
Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi...?
Hậu thân kim túc chớ nên phiền.


Tư Mã Hồ Châu nghe mấy câu thơ giật mình hỏi :

— A ! Té ra là Lý Bạch người đất Thục mà tôi không biết xin túc hạ hỉ xả cho.

Nói xong Hồ Châu mời Lý Bạch về công đường đã đằng mười ngày thơ rượu rất hậu.
Hồ Châu Tư Mã hỏi :

— Túc hạ là người có tài cao học rộng, dễ mà đoạt lấy đai vàng mũ bạc, tại sao túc hạ không đến trường an mà ứng thi ?

Nét mặt thản nhiên, Lý Bạch đáp :

— Cuộc thế đang hỗn loạn, chạy theo tiền tài xua nịnh, kẻ nào có tiền lo lót thì được đỗ cao. Chính con mắt đệ thấy thế nên đệ đành ngao du đây đó, uống rượu ngâm thơ, để tránh cái bực mình khi thấy bọn khảo quan dốt nát, tự cho mình là thần thánh, nhai đi nhai lại vài phuông sáo ngàn đời của cổ nhân. Họ nằm trong một đáy giếng mà họ những tưởng họ đang ở trong bể cả. Nực cười thay !

Tiếc vì tài năng quán thế mà không có chỗ dùng nên Tư Mã Hồ Châu tỏ lời an ủi :

— Danh tiếng của túc hạ lâu nay đã lừng lẫy, nếu túc hạ chịu xuống Trường an thì lo gì không có người tiến cử.
Cảm động trước tấm thịnh tình của Tư Mã Hồ Châu, Lý Bạch nghe theo, lên đường về Trường an ứng thí.
Khi về đến Trường an, Lý Bạch vào cung Tử Cục để du ngoạn lại gặp được Hạ Tri Chương đang giữ chức Hàn Lâm tại Triều.


o0o

Tuy mới gặp nhau, song hai người đã nghe danh nhau nên rất hâm mộ. Hạ Tri Chương mời Lý Bạch về nhà kết làm anh em, cả ngày đàm đạo, lúc thi ca, lúc tiểu nguyệt rất là tương đắc.
Chuỗi ngày thoăn thoắt trôi chẳng mấy lúc mùa thi đã đến.
Hạ Tri Chương bảo Lý Bạch :
— Mùa thi năm nay quan Chủ khảo Nam Tỉnh là Thái sư Dương Quốc Trung, anh ruột của Dương Qùa Phi, còn quan giám sát lại là thái úy Cao Lực Sĩ, cả hai người này thuộc về bọn tham ô, nhũng lạm. Hiền đệ tánh khẳng khái, không chịu luồn cúi kẻ tiểu nhân, lại không có vàng bạc để đút lót cho chúng thì dầu có tài xuất quỷ nhập thần đi nữa cũng khó mà chiếm được bảng vàng. Nhân tiện tôi có quen với hai người đó, vậy để tôi viết cho hiền đệ một bức thơ giới thiệu, may ra hiền đệ có thể đem cái thiên tài lỗi lạc của mình tạo thành sự nghiệp, vẻ vang thanh danh để thỏa cái chí bình sinh.
Trước lời tâm huyết, Thái Bạch không nỡ từ chối, đành để cho Hạ Tri Chương viết bức thơ giới thiệu, đem đến dâng cho thái sư Dương Quốc Trung, và thái úy Cao Lực Sĩ.
Hai người này xem thơ rồi cười lạt, bảo nhau :
— Chẳng biết cái lão Hạ Tri Phương đã mắc nợ Lý Bạch bao nhiêu vàng bạc mà ân cần viết thơ giới thiệu với chúng ta, lại nói miệng tày, không dâng một lễ vật gì cả. Đời nay những đứa thi nhân mơ mộng không hiểu lấy một chút nhân tình. họ Lý thơ thì hay thật, song xử thế thì rất vụng về. Há dễ họ không biết đời nay tiền tài phải đi trước nhân nghĩa sao ? Vậy thì hễ đến ngày tựu trường, chúng ta thấy tên Lý Bạch cứ việc đánh hỏng ngay để cho họ một bài học kinh nghiệm đời vậy.
Rồi ngày thi đến... Khoa thi mở rộng để chọn nhân tài. Bọn khảo quan tham ô đã đồng ý sẵn, nêu ra câu thi sấm như vầy :
“Bất nguyện văn chương quán thiên hạ, chỉ nguyện văn chưrơng trúng khảo quan”.
Nghĩa là : “Chẳng mong văn chương hơn mọi người, chỉ mong văn chương hợp ý quan trường”.
Dĩ nhiên, Lý Bạch văn chương lỗi lạc, sức lực có thừa, chỉ trong chốc lát đã làm xong thi quyển đem nạp cho quan trường.
Dương Quốc Trung tiếp lấy, xem qua thấy tên Lý Bạch bèn lấy bút son gạch tréo, đánh hỏng, rồi chỉ vào mặt Lý Bạch nói :
— Chỉ đáng mài mực để hầu người...
Cao Lực Sĩ cũng a dua nói :
— Hạng thí sinh ấy chỉ đáng tháo giày, xỏ tất mà thôi.
Nói xong, đuổi cổ Lý Bạch ra khỏi trường thi.
Lý Bạch uất hận tràn đầy, trở về nội phủ than ngắn thở dài, thầm trách những kẻ tham ô, tật đố và nói với Hạ Tri Chương rằng :
— Nếu sau này mà tôi có đắc lộc, quyết sẽ bắt thái sư Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho đền lại những ngày nhục nhã.
Hạ Tri Chương thế cũng đau lòng, vội vàng khuyên giải :
— Hiền đệ chớ có nản lòng, hãy cứ ở lại tệ xá, chờ ba năm nữa đến kỳ thi, may ra gặp những khảo quan thanh liêm chánh trực, chừng ấy hiền đệ được bảng hổ đề tên cũng chưa muộn.
Lý Bạch nghe theo. Từ đó hai người tri kỷ, lúc vịnh nguyệt, lúc mơ trăng không nhắc gì đến chuyện thi cử nữa cả.
Bỗng một hôm, sứ giả nước Phiên đem thơ đến triều. Vua Huyền Tôn giáng chiếu sai Hạ Tri Chương ân cần tiếp đãi sứ giả.
Rạng ngày hôm sau, vua Huyền Tôn lâm triều, truyền cho sứ giả dâng thơ, và khiến Hạ Tri Chương mở ra xem trước long án.
Hạ Tri Chương mở bức thơ ra không biết một chữ nào cả.
Vua Huyền Tôn tức giận cho đòi cả triều thần văn ban, võ bá đến, hỏi xem có ai biết được thứ chữ riêng của nước đó không ? Cả triều thần đều mù tịt.
Huyền Tôn đập long án hét :
— Trong triều có bao nhiêu người lãnh bảng vàng bia đá, lộc cả quyền cao, lúc bình thường thì múa môi khua mép, đến lúc hữu sự lại nín tiếng câm hơi. Chẳng lẽ chừng ấy, cẩm bào, chừng kia hốt bạc mà không được lấy một người học rộng tài cao để đọc bức thơ của Phiên quốc ? Nếu thơ không đọc được thì biết đâu mà trả lời, và như thế còn gì thể diện của Thiên Triều nữa. Trẫm hạn cho các khanh 6 ngày nếu không đọc được bức thơ của Phiên quốc thì Trẫm sẽ cách chức hết.
Các quan văn võ, ai nấy mặt mày tợ nhuộm chàm, đứng ngơ ngẩn nhìn nhau như những bức tượng đá.
Lúc bãi triều, Hạ Tri Chương buồn bực trở về nhà kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Lý Bạch nghe. Lý Bạch tủm tỉm cười rồi ngao ngán nói :
— Nếu khoa thi trước kia mà không có những bọn gian thần tham nhũng thì ngày nay triều đình đâu có cái nhục đó !
Hạ Tri Chương nghe Thái Bạch nói, giật mình hỏi :
— Thế ra hiền đệ có thể đọc được chữ của nước Phiên sao ?
Lý Bạch khiêm tốn đáp :
— Có lẽ...
Hạ Tri Chương mừng rỡ vô cùng. Sáng hôm sau, Hạ Tri Chương vào triều thật sớm, ngồi đợi nơi viện Đãi Lâu.
Ba hồi chuông Cảnh dương nổi dậy, tiếp theo ba hồi trống Long Phụng rung lên, vua Huyền Tôn vội vã từ giã các cung phi lâm triều.
Triều thần bái yết xong, Hạ Tri Chương quỳ tâu :
— Muôn tâu Bệ hạ, muốn đọc bức Phiên thư, hạ thần nhắm đi nhắm lại trong nước chỉ có một người. Người ấy họ Lý tên Bạch, một kẻ học rộng tài cao, thiên tư lỗi lạc, ngoài ra không còn ai nữa.
Vua Huyền Tôn phán hỏi :
— Lý Bạch hiện nay ở đâu ?
— Tâu Bệ hạ, Lý Bạch hiện đang ở nhà hạ thần.
Vua Huyền Tôn chuẩn tấu cho người đến tư dinh Hạ Tri Chương để thỉnh Lý Bạch.
Sứ giả đi một lúc trở về tâu :
— Tâu Bệ hạ, hạ thần đã đến mời Lý Bạch nhưng Lý Bạch không chịu yết kiến, viện lẽ là kẻ vô tài kém đức, không đáng mặt triều kiến Bệ hạ.
Nhà vua hỏi lại Hạ Tri Chương :
— Lý Bạch không chịu phụng chiếu vì lẽ nào vậy ?
Hạ Tri Chương đáp :
— Tâu Bệ hạ, Thái Bạch vì hiện có cái nhục năm trước vào trường thi bị khảo quan đánh hỏng đuổi ra trường. Nay áo vải vào triều nên hổ thẹn, vậy xin Bệ hạ rộng lượng ban ơn huệ, thì thế nào y cũng phụng chiếu.
Huyền Tôn y tấu, sai người đến phong chức tiến sĩ cập đệ cho Lý Bạch, lại cấp đai vàng, bào tía, hốt ngà, mão gấm để cho vẻ vang nhà thơ “tửu hứng tiên thơ...”
Hạ Tri Chương còn sợ Lý Bạch không hứng, nên trở về nhà bảo Bạch :
— Nay Thiên Tử đã có lòng ái mộ hiền nhân, vậy hiền đệ đừng vì hiềm tị lũ tham quan mà phụ lòng Thiên Tử, bỏ lỡ dịp may.
Bạch vâng lời, mặc triều phục, theo Hạ Tri Chương vào triều bái yết.
Huyền Tôn thấy Lý Bạch cốt cách đoan trang, phong lưu tuấn tú như vị tiên giáng thế, trong lòng thầm phục, và phán rằng :
— Nay có thư Phiên quốc đưa đến, cả triều thần không ai đọc nổi, vậy trẫm triệu khanh đến để cùng trẫm chia lo.
Thái Bạch tâu :
— Tâu Bệ hạ, tài năng của hạ thần chưa đủ làm vừa ý khảo quan thì dám đâu mong làm vừa lòng Bệ hạ.
— Khanh đừng tự hạ mình như thế, xem tướng mạo của khanh, trẫm đã biết tài của khanh đến bực nào rồi.
Nói xong, Huyền Tôn sai thị vệ đòi Phiên sứ đến.
Lý Bạch mở thư trước mặt sứ thần đọc to :
“Đại Khả Độc nước Bột Hải gởi Đường Triều khẩn khán :
Từ khi người chiếm cứ nước Cao Ly đến nay, hai biên giới tiếp liền, binh sĩ hai bên nhiều lần gây hấn. Bản quốc không thể nhẫn nại trước hành động của quân gia Đường quốc nữa, nên sai sứ đến Đường triều, nếu thuận thời đem tất cả một trăm bảy mươi sáu thành Cao Ly nhường lại cho bản quốc, sẽ có những tặng phẩm sau đây phụng tặng : nai Hạnh sơn, vóc Nam Hải, trống Bành thành, hưu Phù dư, lợn Trịnh hiệc, ngựa Suất Tân, lục ốc châu, cá Vị Đà, mận Cửu Lộ, lê Lạc Ty.
Nếu kháng lại, bản quốc sẽ cho binh biến, chừng ấy máu rây ngàn dặm, ăn năn thì đã muộn, chớ trách bản quốc không cho biết trước”.
Huyền Tôn nghe xong bức thư mặt mày biến sắc, hỏi văn võ bá quan :
— Nay Phiên vương ngạo mạng Thiên Triều lại hăm chiếm đoạt Cao Ly, vậy các khanh có cách gì chế ngự không ?
Cả đình thần đều im bặt.
— Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ hỏi thử Thái Bạch có ý kiến gì hay chăng ?
Huyền Tôn hỏi Lý Bạch, Lý Bạch tâu :
— Việc này không có gì đáng để Thánh Thượng phải nhọc tâm. Ngày mai, xin Bệ hạ cho đòi Phiên sứ vào triều, hạ thần sẽ viết một phong thư bằng chữ Phiên bang mà trả lời, cho chúng nó một bài học thích đáng thì chúng nó phải phục tòng.
Huyền Tôn hỏi :
— Trong thư tự xưng là Khả Độc, vậy Khả Độc là người nào ?
Lý Bạch tâu :
— Khả Độc là tên vua nước Bột Hải.
Thấy Lý Bạch đối đáp thông suốt, vua Huyền Tôn bèn phong cho Bạch chức Hàn Lâm học sĩ, lại truyền tứ yến tại Kim Loan, cho phép Lý Bạch tự do chè chén, không phải bó buộc vào nghi lễ.
Bạch uống rượu đến say tít cung trăng, không còn biết đất trời gì cả. Nhà vua sai thị vệ đỡ Bạch lên nằm ở Điện tiền.
Hôm sau, đầu trống canh năm vua Huyền Tôn đã lâm triều còn Lý Bạch say mèm chưa tỉnh.
Bọn nội thị lay gọi, Lý Bạch vẫn nằm ỳ ra đấy. Nhà vua thấy thế bèn bắt ngự trù nấu canh cho Lý Bạch ăn để giải rượu.
Lúc thị vệ dâng canh lên nhà vua thấy canh còn nóng bèn tự mình cầm thìa khuấy cho nguội để cho Lý Bạch dùng.
Lý Bạch tạ Ơn, dùng xong mấy thìa canh thấy trong người tỉnh mỉnh, ma men bay đâu mất.
Một lúc sau, Phiên sứ vào triều kiến, Lý Bạch đứng bên ngự tọa, tay cầm bức thư của Phiên sứ đọc rất to, không lầm lộn một chữ nào.
Phiên sứ thấy thế sợ sệt vô cùng.
Lý Bạch thay vua phán rằng :
— Nhà ngươi là sứ một tiểu quốc lại dám vô lễ với thiên triều, lẽ ra phải xử tội; tuy nhiên, thánh thượng dùng lượng cả bao dung, vậy nhà ngươi hãy phục sẵn dưới thềm để chờ lời phê chiếu.
Vua Huyền Tôn truyền đặt văn kỷ thất bảo bên Ngự Tọa, dùng nghiên Bạch Ngọc, bút ngà, mực Long Yên, giấy Kim hoa tiên và nhắc cẩm đôn đến đặt bên Ngự tọa để cho Lý Bạch thảo chiếu.
Lý Bạch tâu :
— Giày của hạ thần không được thanh khiết cho lắm, e phạm đến Thánh thể, vậy xin Bệ hạ cho phép hạ thần được cổi giày đi tất không, để lên điện ngọc.
Vua Huyền Tôn nghe nói, toan truyền bọn nội thị tháo giày cho Lý Bạch, nhưng Lý Bạch đã tâu thêm :
— Hạ thần có một lời, xin Bệ hạ tha cho hạ thần cái tội cuồng vọng này.
— Được, khanh muốn gì cứ việc tâu, dù khanh có lầm lỗi đến đâu, trẫm hứa không chấp trách.
Lý Bạch tâu :
— Ngày trước hạ thần vào thi bị thái sư Dương Quốc Trung và thái úy Cao Lực Sĩ đánh hỏng. Nay hai người có mặt làm cho văn khí hạ thần bị bế tắc. Vậy muốn cho văn ý của hạ thần được phấn khởi, rửa nhục cho quốc vương, xin Bệ hạ truyền cho thái úy tháo giày và thái sư mài mực để cho hạ thần thảo chiếu.
Vua Huyền Tôn nghe qua sững sốt, nhưng không biết phải làm sao, đành truyền chỉ bắt Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho Lý Bạch. Hai người này tự biết không thể cãi lịnh đành phải cúi đầu trơ mặt tuân hành trước văn ban võ bá.
Lý Bạch đắc à, ngạo nghễ ngồi trên cẩm đôn, một tay vuốt râu, một tay múa bút.
Thảo xong tờ chiếu, Lý Bạch đứng lên long án.
Vua Huyền Tôn thấy tự tích không khác gì bức thư của Phiên bang, tuy không nói ra, lòng rất đẹp à, nghĩ thầm : “Con người tài cao học rộng như vầy, dầu ta có bắt thái sư mài mực, thái úy tháo giày cũng là việc phải”.
Nghĩ xong, truyền cho Phiên sứ phục chỉ.
Lý Bạch đến trước Ngự tọa, cao giọng đọc bức chiếu thư :
“ Hoàng đế Thiên triều chiếu dụ cho Khả Độc nước Bột Hải biết : trước đây Thạch Nhoãn đầu phục, Đà Long lai hàng, bản triều ứng theo mệnh trời mà lập ngôi Hoàng đế, lấy đức vỗ bốn phương, lấy oai trị thiên hạ, binh hùng tướng mạnh, các nước lân cận thảy khiếp oai. Điệt Lợi bội thề nên bị bắt, Tán Phổ khiếp vía phải hàng đầu; Tân La, Thiên Trúc, Ba Tư hằng năm dâng cống lễ; Lâm ấp, Cốt Lợi, Nê Rà La, đều sợ thế chẳng dám giở đao binh.
Cao Ly vì trái ý Thiên trièu, nên bị Thiên triều vấn tội. Tấm gương ấy đáng cho nước nhà ngươi soi. Nay nước Bột Hải chỉ là một nước phụ thuộc của Cao Ly, sánh với Trung Quốc chẳng quá là một quận bé nhỏ, binh tướng, lương thực có bao nhiêu mà dám châu chấu đá voi. Nếu nghịch mạng trời ắc là không tránh khỏi tội.
Nay Thiên triều đức trọng ơn dày, lấy lời nhơn nghĩa mà dung thứ cho kẻ cuồng si; vậy khuyên Khả Độc mau sớm tỉnh ngộ, xưng thần nộp cống, cãi lệnh, xương phơi thành núi, máu chảy thành sông, mua cười cho thiên hạ”.
Nay dụ.
Vua Huyền Tôn nghe đọc, khoan khoái vô cùng, truyền nội giám trao lời chiếu cho Phiên sứ.
Phiên sứ cũng thất kinh không dám nói một lời, cúi đầu bái mạng, rồi bước ra.
Hạ Tri Chương đưa Phiên sứ ra đến cửa ngọ môn, Phiên sứ hỏi :
— Người thảo chiếu làm chức chi trong triều mà lại khiến thái sư mài mực, thái úy tháo giày như thế ?
Hạ Tri Chương đáp :
— Người ấy tên Bạch họ Lý, được phong làm chức Hàn Lâm học sĩ. Đấy là một bậc thần tiên trên cung trời trích giáng để giúp Thiên triều. Thái sư, thái úy bất quá là một người phàm, há đi mài mực cho ông ta không đáng sao ?
Phiên sứ ghi nhớ mọi điều, về đến kinh đô tâu lại đầu đuôi cho vua xứ Bột Hải rõ. Khả Độc nghe nói có thần tiên giáng trần giúp sức nên khiếp đởm, bao nhiêu ý tưởng khinh dễ điều tiêu tan cả, vội vã viết hàng thư sai người đem lễ vật triều cống như trước.
Vì vậy, vua Huyền Tông trọng đãi Lý Bạch vô cùng, muốn gia phong cho Lý Bạch thêm chức tướng nhưng Lý Bạch một mực từ chối :
— Tâu Bệ hạ, bạc tiền, châu báu, chức tước đối với hạ thần không thích thú bằng tiêu dao nhàn hạ, xin Bệ hạ cứ cho giữ tước Học sĩ du ngoạn, hễ gặp rượu ngon thì uống, đủ vậy.
Biết Lý Bạch là bực thanh cao không dám làm phật lòng. Từ đấy cứ lâu lâu nhà vua lại mở yến diên thết đãi và thỉnh thoảng triệu Lý Bạch vào cung nội để bàn việc quốc sự.
Một hôm, Bạch cỡi ngựa thẩn thơ trước trường an, bỗng gặp một bọn đao phủ dẫn một chiếc tù xa đến pháp trường. Hỏi ra mới biết đó là viên tướng phạm tội, từ Tinh Châu giải về sắp hành quyết. Người ấy họ Quách tên Tử Nghi.
Lý Bạch thấy Tử Nghi mày ngài hàm én, biết là một tên kiện tướng có thể làm rường cột cho quốc gia sau này, bèn vội vã ra lệnh cho đao phủ thủ tạm ngưng việc hành quyết.
Dặn xong, Lý Bạch cỡi ngựa về triều cầu xin một đạo chỉ ân xá tội nhơn, rồi lại phi ngựa ra pháp trường, mở tù xa, thả Tử Nghi ra mà khuyên nhủ nên gắng sức đoái công phục tội để khỏi phụ lòng mong ước của Bạch.
Tử Nghi lạy tạ Ơn cứu mệnh, hỏi tên họ Lý Bạch rồi từ giả.
Lúc bấy giờ nơi hoàng cung đến mùa hoa mẫu đơn đua nở, khoe sắc đủ màu. Giống hoa này là giống hoa Mộc thược dược của nước Dương Châu đem cống hiến, gồm có 4 thứ là : Đại Hồng, Thâm Tử, Thiển Hồng và Thông Bạch.
Vua Huyền Tôn truyền dời những hoa ấy đến điện Trầm Hương để ngắm cung phi, thưởng hoa dưới nguyẹt, lại đòi bọn đệ tử Lê Viên đến đó hòa nhạc cho vui.
Tuy nhiên, vì chán nghe những bản nhạc cũ, nên nhà vua phán rằng :
— Ngắm cung phi, thưởng danh hoa, không nên nghe những khúc cổ nhạc nhàm tai mãi.
Vua truyền cho một con hát có danh tên là Là Quy Niên đến triệu thỉnh Lý Bạch vào cung.
Là Quy Niên tìm mãi mới gặp Lý Bạch đang say mèm trong quán rượu, và đang ngâm thơ :

Tam bôi thông đại đạo
Nhất đẩu họp tự nhiên
Đản đắc tửu trùng thú
Vật vi tỉnh giả truyền
Nghĩa là :
Ba chung rành đạo lớn
Một đấu hợp tánh thiêng
Say sưa trong thú rượu
Còn hơn kẻ tỉnh điên.


Giọng thơ ran rản bên ngoài, Là Quy Niên biết đúng là Lý Bạch, vội lần vào quán và truyền mệnh lệnh của Huyền Tôn :
— Thưa học sĩ, Thánh thượng va Quý Phi hiện đang ngự tại điện Trầm Hương, dạy đòi học sĩ đến để đàm đạo, xin học sĩ đi ngay cho.
Lý Bạch không đáp, trợn đôi mắt đỏ ngầu nhìn Là Quy Niên rồi ngâm tiếp một đoạn thơ của Đào Uyên Minh, cùng một giòng ma rượu :
Ngã túy dục miên, quân thả khứ
Nghĩa là :
Ta say thích ngủ, đừng ai đến
Ngâm xong, Lý Bạch nhắm mắt ngủ li bì, chẳng kể gì đến lệnh vua chúa gì hết...
Là Quy Niên thấy thế cười ngặt nghẽo, gọi năm bảy tên tùy tùng leo lên lầu khiêng Lý Bạch xuống, đặt lên yên ngựa, đỡ hai bên, để cho ngựa chở thẳng về lầu Ngũ Phượng. Xong vào báo cho vua Huyền Tôn rõ.
Vua Huyền Tôn đặc cách cho phép Lý Bạch được đi ngựa thẳng vào Trầm Hương, rồi cùng với Phi Tử lên lầu nhìn xuống thấy Lý Bạch ngồi ngất ngưỡng trên lưng ngựa, xiêu bên này, vẹo bên kia, ai trông thấy cũng phải tức cười.
Vào đến điện Trầm Hương, Lý Bạch nằm vật trên long khảm mắt nhắm híp, miệng chảy đầy nước dãi... Nhà vua xem thấy động lòng, vội lấy áo long bào lau cho đứa con cưng của “Nàng thơ”.
Phi Tử tâu :
— Muôn tâu, thần thiếp nghe người ta nói nước lạnh có thể dùng giải rượu được.
Vua nghe nói liền sai thị vệ đem nước lạnh đến giải rượu cho Lý Bạch. Quả nhiên, vừa uống cạn ly nước, Lý Bạch tỉnh rượu ngay, vội vàng quà mọp xuống đất tạ tội.
Nhà vua đỡ Lý Bạch dậy và nói :
— Nay trẫm cùng Phi Tử thưởng hoa, muốn có một khúc nhạc tân kỳ, vậy nên triệu khanh đến để viết khúc ca chương thanh bình điệu.
Thấy văn phòng tứ bảo đã đặt sẵn trước mặt, Lý Bạch liền cầm bút thảo ngay :

Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng
Nhược phi quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng giao đài nguyệt hạ phùng.


Nghĩa là:

Mây vờn như áo, hoa như mặt
Sương đượm hơi xuân, lướt bóng hoa.
Quần ngọc đầu non bằng chẳng thấy,
Cung giao ngỡ tưởng bóng trăng tà...


Và:

Nhất chi hồng diểm lệ ngưng hương,
Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán Cung thùy đắc tự ?
Khả lân Phi yến ỷ tân trang !


Nghĩa là:

Một cành hồng thắm đượm hơi hương,
Mưa gió non vu luốn đoạn trường.
Hỏi thử Hán Cung ai dám sánh ?
Khá thương Phi Yến chốn Tân trang !


Và:

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Tường đắc quân vương đới tiếu khan...
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm hương đình bắc ỷ lan can.


Nghĩa là:

Hương trời, sắc nước gợi vui tươi,
Tửu mến quân vương hé nụ cười...
Gió thoảng hơi xuân vô hạn hận,
Trầm hương đứng ngắm tựa lan can.


Lý Bạch viết xong dâng lên, Huyền Tôn xem thấy tình ý tuyệt trần, trong lòng phơi phới, truyền cho Là Quy Niên theo điệu mà hát.
Quý Phi lạy tạ Ơn vua đã chiếu cố đến mình.
Huyền Tôn ói :
— Không phải tạ Ơn trẫm, khanh nên tạ Ơn Học sĩ mới phải.
Quý Phi lấy ve vàng chén ngọc rót đầy ly rượu, sai cung nữ đưa mời Lý Bạch.
Từ đó trong cung lúc nào có yến tiệc cũng mời Lý Bạch đến. Quý Phi yêu mến Lý Bạch khác thường, mối tình tài tử giai nhân chớm nở cũng như sợi dây oan nghiệt nghìn đời ràng buộc mãi với kiếp người tài hoa.
Lẽ ra có thể làm đổ nước nghiêng thành đi được, song Lý Bạch lại là người chỉ thích có rượu thơ, đâu có tham vọng những mùi vinh hoa phú quý. Nhà thi sĩ tài hoa kia lạnh nhạt trước mối tình thầm kín của Quý Phi. Còn Quý Phi yêu mà không được người ta yêu lại, bực tức đến nỗi sanh ra thù oán. Sự đời là thế, chữ yêu đổi ra chữ oán không mấy hồi.
Lúc bấy giờ trong triều có Cao Lực Sĩ là hạng rắn độc, trong lòng ấp ủ mối thù với Lý Bạch bắt y tháo giày thuở nọ, nên thăm dò biết được mối tình tuyệt vọng của Đào Quý Phi có thể dùng làm lợi khí cho hắn phun độc dược, liền thừa cơ hội ấy dèm pha rằng :
— Theo ngu ý của kẻ hèn này thì ba bài bình điệu của Lý Bạch lẽ ra Nương Nương phải oán ghét lắm mới phải, cớ sao Nương Nương lại ngợi khen đến thế ?
Quý Phi hỏi :
— Tại sao mà nhà ngươi lại cho là phải oán ghét ?
Cao Lực Sĩ rót nhẹ ly rượu vào gói thuốc độc rồi nói :
— Tâu lệnh bà, câu : “Khả lân Phi Yến ỷ tân trang” nó hàm một nghĩa châm biếm vô cùng.
Chắc Nương Nương cũng rõ nàng Triệu Phi Yến thuở xưa là bậc Hậu Phi của vua Thành Đế, được nhà vua quà chuộng hơn cả. Phi Yến lại sai mê Sích Phượng và cùng người ấy tư thông. Chẳng may vua Thành Đế biết được, bắt gặp Sích Phượng trong tủ áo, đem giết ngay trước mặt Phi Yến. Nay Lý Bạch đem Phi Yến sánh với Nương Nương thì đó là một lời nhạo báng rất bóng bẩy. Xin Nương Nương xét k˛ !
Thuở ấy Quý Phi có nuôi chàng An Lộc Sơn làm con nuôi trong tư cung. An Lộc Sơn với Quý Phi ngang tuổi nhau, thế mà Quý Phi ngày hai ba lần thân hành tắm rửa cho đứa “con cưng” ấy trước mặt vua Huyền Tôn, mà vua Huyền Tôn cũng không nói gì cả. Thật Quý Phi còn tệ hơn nàng Phi Yến thuở trước.
Cao Lực Sĩ khéo châm ngòi, đốt lửa, gây vào lòng Quý Phi một mối hận thù với Lý Bạch, nên Quý Phi tâu với Huyền Tôn rằng Lý Bạch ngạo nghễ, không giữ lễ quân vương.
Bắt đầu từ đó, các cuộc yến ẳm trong cung không mời Lý Bạch vào nữa. Và Huyền Tôn cũng không hỏi Lý Bạch về việc triều chính nữa.
Lý Bạch cảm thấy lòng yêu chuộng của Huyền Tôn mỗi lúc một lạt lẽo lần, đoán biết Cao Lực Sĩ mưu hại, và Quý Phi cố báo thù, nên nhiều lần tâu xin đi nơi khác, nhưng vua Huyền Tôn cố cầm ở lại.
Lý Bạch buồn bã, càng ngày càng dầm mình sống trong bể rượu, không thiết tha đến việc đời nữa. Cả đến người vợ của Lý Bạch ở tại Cẩm Thành là Hứa phu nhơn, cũng không bao giờ được Bạch tưởng đến. çi “Phòng không lặng ngắt như tờ, ngựa ai thấp thoáng lờ mờ hơi sương”. Hứa phu nhơn trông tin mòn mỏi mà chẳng thấy Lý Bạch đâu !
Trong các bợm rượu thân tín với Lý Bạch thời ấy là Hạ Tri Chương, Là Thích Chi, Nhữ Dương, Vương Kiến, Thôi Tông Chi, Tô Tấn, Trương Bậc, Tiêu Thại, thường hay say sưa ngả ngớn mà người ta gọi là “ẳm trung bát tiên”.
Một hôm tốt trời, vua Huyền Tôn truyền đòi Lý Bạch vào cung để phóng thích con “Phượng Hoàng muôn thưở” ấy về với đồng nội cỏ hoa cho thỏa lòng ao ước.
Huyền Tôn có đôi lời an ủi :
— Trẫm thấy khanh tài năng lỗi lạc, tánh tình lại thanh bạch nên đem dạ mến yêu. Nay trẫm tạm cho khanh được vinh quy, vậy khanh có cần thứ gì trẫm sẽ ban cấp cho.
Lý Bạch tâu :
— Hạ thần không cần gì cả, ngoài một món tiền để uống rượu thôi.
Vua Huyền Tôn hạ chiếu, truyền rao khắp nơi, cho phép Lý Bạch đến đâu uống rượu không phải trả tiền. Số tiền ấy sẽ do ngân khố thanh toán.
Nhà vua lại ban thêm vàng bạc, đai y và cấp 12 đứa tùy tùng theo hầu Lý Bạch.
Lý Bạch cúi lạy tạ Ơn và nghĩ rằng :
“Vì vua này quả có đôi mắt xanh tương đối vậy”.
Huyền Tôn lại thân cắm hai đóa hoa vàng trên mũ Lý Bạch rồi truyền nội thị đỡ Bạch lên ngựa trước ngai vàng, đưa ra khỏi triều môn. Đó là một ân huệ đặc biệt đối với các vua nước Tàu thời ấy.
Các quan đưa đón, rượu tiễn lời chào từ Trường An đến mười dặm đường chưa dứt.
Chỉ có thái sư và thái úy, hai người lánh mặt, ngồi nhà hả hê sung sướng, khen ngợi diệu kế của mình đã khéo “tống cổ” được tên “thi sĩ cứng đầu” ra khỏi triều để dễ bề thao túng.
Hạ Tri Chương và cả bợm rượu đều đưa Lý Bạch ngoài trăm dặm, viết đến hơn trăm bài thơ tống biệt mà vẫn chưa cạn tâm tình.
Lý Bạch đi rồi, Hạ Tri Chương cảm thấy lòng mình hiu quạnh như mất một cái gì không bao giờ còn tìm thấy nữa.
Có lẽ trong đời nghệ sĩ của Lý Bạch, chỉ có Hạ Tri Chương là người yêu Bạch nhứt.
Trên đường về, tuy Bạch cảm thấy vui với cỏ nội, mây ngàn, tìm lại những cái gì xa xưa đã mờ khuất, song cũng không khỏi bồi hồi, nhớ đến Hạ Tri Chương người bạn tâm giao, cảm nghĩa cùng nhau nhưng yêu nhau không trọn.
Ngày kia, Lý Bạch về đến Cẩm Châu, gặp lại Hứa phu nhơn, vợ chồng tương mến, duyên cầm sắt lại giao hòa, nối lại tiếng đàn xưa trong tâm hồn thi sĩ.
Các bè bạn xa gần trên đất Thục, chiều sớm lân la, rượu thơ túy lúy. Thật là một cảnh an nhàn.
Thế mà : “Nửa năm hương lửa đang nồng, trượng phu thoắc đã động lòng bốn phương”. Cho hay con chim trời không bao giờ chịu đậu một nơi, dù nơi đó là nơi cảnh đẹp hoa tươi, suối ca, gió hát.
Một sớm tinh sương, Lý Bạch tỏ ý với vợ muốn đi du ngoạn sơn thủy. Mặc dầu Hứa phu nhơn nghe nói cũng buồn lòng, nhưng nàng đâu phải là chiếc lòng son có thể nhốt được loài chim trời cuồng vọng ấy được, đành sửa soạn cuộc chia phôi.
Lần này ra đi, Lý Bạch không xúng xính mũ cao, áo rộng của chức Học sĩ nữa, mà chỉ ăn mặc theo lối thư sinh, hay nói cho đúng hơn là một gã học trò nghèo, chỉ đem theo một thằng đồng tử con con và cỡi một con ngựa ôm ốm, và như thế cũng đã phong lưu chán rồi.
Một hôm, Lý Bạch đi đến huyện Hoa Ñm. Tiếng đồn quan huyền này là một vị quan tham ô nhũng lạm, mọt nước, hại dân. Lý Bạch định ý “sửa lưng” tên quan chức mục nát ấy.
Bạch đến trước huyện, cho ngựa đi thẳng vào cổng, đánh ba hồi trống làm như không biết huyện quan đang xét việc nơi công đường.
Huyện quan nghe có tiếng trống đổ hối hả thất kinh tưởng là giặc đến, dớn dác muốn tìm đường tẩu thoát. Sau biết rõ giận lắm, sai lính lệ xuống lôi cổ Lý Bạch lên công đường hạch hỏi.
Lý Bạch giả say, không đáp. Quan huyện truyền đem tống cổ tên bợm rượu ấy vào lao để chờ truy cứu.
Khi Lý Bạch vào lao được một lúc thì thấy một tên lính lệ mang mực, giấy đến vất vào mặt bảo phải cung khai đầu đuôi câu chuyện, nếu không thì đánh chết.
Lý Bạch mỉm cười, cầm bút viết một hồi :
“Ta là Lý Bạch, quê ở Cẩm Châu, nhỏ tuổi, rộng văn chương vung bút giết loài nịnh, Trường An gọi bát tiên, Trúc Khê xưng Lục Dật; thảo chiếu trừ Phiên quốc, Điện ngọc tự do vào uống rượu mà giải trí, Kim loan chỗ nghỉ ngơi, canh nóng có vua khuấy, dãi chảy áo vua lau, Dương thái sư mài mực, Cao thái úy tháo giày. Trước sân rồng Hoàng Đế còn cho ta cỡi ngựa, huống chi tại huyện Hoa Ñm các ngươi lại buộc ta không được cỡi lừa ư ?”
Viên chủ ngục xem xong lời cung, mình mẩy rụng rời, tay chân run lập cập, vội vã quỳ xuống tạ tội.
Lý Bạch nói :
— Việc này không can hệ gì đến nhà ngươi đâu. Nhà ngươi hãy mau đến công đường nói cho quan huyện biết rằng ta vâng chỉ Hoàng Thượng đến đây để tra xét tội tham ô của hắn, sao hắn lại dám bắt ta hạ ngục ?
Viên chủ ngục vội vã mang tờ cung khai đến trình lên tri huyện và thuật lại những lời Lý Bạch vừa nói.
Tri huyện khiếp vía nắm tay tên chủ ngục chạy thẳng đến lao xá, bắt từ bên ngoài lạy vào, rên rỉ xin Lý Bạch dung tha cho đứa ngu hèn.
Các phủ huyện quanh vùng nghe tin lập tức đến nơi chào mừng Học sĩ và mời Học sĩ thăng thính đường để xin những lời chỉ giáo.
Lý Bạch lấy lời liêm chánh răn dạy mọi người, ai nấy đều vui vẻ nghe theo.
Từ đấy Lý Bạch đi đến đâu, các tham quan, ô lại nể mặt không dám hành hạ dân lành như trước nữa.
Kế một thời gian sau đó An Lộc Sơn — đứa con nuôi của Quý Phi — nổi loạn, tụ tập một số cường đố cướp bóc Trường An. Vua Huyền Tôn phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục, giết thái sư Dương Quốc Trung trước mặt ba quân, và thắt cổ Quý Phi tại gò Mã Ngôi; mặc dầu những giòng lệ chảy ước long bào, ông vua đa tình kia cũng phải buộc lòng dứt bỏ lời thề trong đêm thất tịch “tại thiên nguyện tác tị dự điểu, tại địa nguyện vi liên là chí” : “Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”.
Khúc trường hận của Huyền Tôn đã được nói lên trong lời văn thiết tha bi đát của nhà thi sĩ áo xanh “Giang Châu Tư Mã” với nỗi hận lòng gởi gắm niềm riêng.
Lý Bạch lúc ấy tránh loạn ẩn tại Lư Sơn. Vĩnh Vương Lân lúc bấy giờ lại làm Tiết độ sứ quản thủ cả vùng đông nam nước Tàu.
Vì thấy Huyền Tôn rời bỏ kinh đô, thiên hạ đại loạn, nên ý cũng muốn “thừa cơ một thưở” bèn sai sứ giả đến triệu Lý Bạch về giữ lại trong quân để bàn việc “đại kế”.
Chẳng bao lâu con trai của Huyền Tôn là Túc Tôn lên ngôi kế vị, phong Quách Tử Nghi làm nguyên soái thống lãnh đại lịnh. Túc Tôn nghe Vĩnh Vương Lân có ý tạo phản bèn xuống chiếu sai Quách Tử Nghi đến vấn tội.
Khi ấy nội bộ của An Lộc Sơn bị nổi loạn : An Lộc Sơn bị đứa con trai giết đi để tiếm ngôi rồi chẳng bao lâu, đứa con trai của An Lộc Sơn lại bị một tên cận thần phản phúc giết đi để đoạt quyền; do đó, chỉ trong một thời gian ngắn bọn loạn quân này tan rã, và nhà Đường thu lại được cả hai tỉnh.
Được rảnh tay, Quách Tử Nghi đem quân đánh Vĩnh Vương Lân. Tên phản phúc này bị cô thế bỏ trốn, bị một tên quân canh bắt được giải đến viên môn.
Còn Lý Bạch thì gặp lại được Quách Tử Nghi, đưa Lý Bạch về triều tâu cùng vua Túc Tôn, nói rõ tài năng lỗi lạc của Lý Bạch và xin Túc Tôn trọng dụng.
Túc Tôn liền xuống chiếu phong cho Lý Bạch làm Tã thập di, nhưng Lý Bạch một mực từ chối không nhận.
Từ đó, Lý Bạch một thuyền một lá, thửng thờ sớm bãi chiều gành, rồi đến Kim Lăng, than thở cho những sự phế hưng diễn biến không ngừng :
“Trùng thu viễn cận thiên quan chủng, hòa thử cao đê lục đại cung”.
Trong óc nhà thơ say ấy có những mối cảm hoài gì trong thế sự ?
Một đêm, khi thả thuyền đến ven sông Thái Thạch, trăng tỏ sao thưa gió hòa nhè nhẹ, vàng trăng lơ lửng trên không như gieo vào lòng người một mối vô tư, xóa nhòa những cái gì còn nặng vấn vương trong trần tục, Lý Bạch đắm mình trong khung cảnh ấy, ngồi trầm lặng nơi đầu thuyền, uống rượu, uống cả vừng trăng, “rượu say, say cả vừng trăng dịu hiền”.
Vừng trăng rung rinh đáy nước, rung rinh trong lòng chén, thấm sâu vào tiềm thức siêu thần, Lý Bạch thấy mỗi sợi tóc mình biến thành một vành trăng ngời ngợi sáng... trong phút mê ly, Lý Bạch nhảy xuống dòng sông, ôm mảnh trăng rung rinh tan vở... để trở về nơi cảnh tiên bồng...
Thôi thế là hết một đời tài hoa trên trần tục.
Bạch ra đi... đi mãi không bao giờ còn trở về với Hứa phu nhơn nữa.
Từ đấy Hứa phu nhơn thẩn thơ với gió sớm mây chiều, ôm nửa vầng trăng vạn thuở mà nằm mơ trong giấc mộng hồn...



Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2007

Hà thành chính khí ca - Ba Giai

Hà Thành chính khí ca

Sáng tác: Nguyễn Văn Giai (Ba Giai)

Một vầng chính khí lưu bình,
Rộng trong trời đất, nhật tinh sơn hà,
Hạo nhiên ở tại người ta,
Tấc vuông son sắt hiện ra khi cùng.(1)
Nên thua theo vận truân phong,
Ngàn thu rạng tiếng anh hùng sử xanh.
Có quan tổng đốc Hà Ninh
Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng? (2)
Lâm nguy, lý hiểm đã từng,
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.
Thôn hồ dạ những chăm chăm,
Ngoài tuy giao thiệp, trong căm những là...
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,
Rạng ngày mồng tám, mới qua giờ thìn,
Biết cơ trước đã giữ gìn,
Hơn trăm võ sĩ, vài nghìn tinh binh.(3)
Tiên nghiêm lên đóng trên thành,
Thệ sư (4) rót chén rượu quỳnh đầy vơi.
Văn quan võ tướng nghe lời,
Ai ai xin quyết một bài tận trung.
Ra uy xuống lịnh vừa xong,
Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran.

(Tòa kiểm duyệt thời 1928 cắt bỏ hết một đoạn)
Bắn ra nó chết cũng nhiều(5)

Phố phường trông thấy, tiếng reo ầm ầm!
Quan quân đắc chí bình tâm,
Trên thành Cửa Bắc vẫn cầm vững binh.(6)

(Tòa kiểm duyệt thời 1928 cắt bỏ hết một đoạn)

Không ngờ thất ý tại ta,
Vẫn rằng thắng trận, hóa mà thua cơ!
Nội công phải những bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo (7)
Quan quân sát khí cũng nhiều,
Thành tây loài qủi đánh liều trèo lên .
Nào ai sức mạnh gan liền?
Nào ai cầm vững cho bền ba quân?
Nào ai có chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu,
Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây.(9)
Trời cao, biển rộng, đất dày,
Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
Than ôi trong lúc gian nguy!
Đau lòng ai cũng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.(10)
Đau đớn nhẽ! ngẩn ngơ dường!
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!
Kể từ năm Dậu bao xa,(11)
Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.
Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.
Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sinh tựu nghĩa, có gan mấy người?
Trước, quan Võ Hiển khâm sai (12)
Sau, quan Tổng đốc một vài mà thôi.
Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan bào trâm hốt nhác coi ngỡ là...
Thanh bình làm hại dân ta,
Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn gian nguy,
Mắt trông ngơ ngác, chân đi gập ghềnh.
Võ, như đề đốc Lê Trinh,
Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,
Đương khi giao chiến ngang tàng,
Thấy quân hầu đổ vội vàng chạy ngay.
Nghĩ xem thật cũng ghê thay,
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?
Thế mà nghe nói mồ hồ
Rằng: quan đề đốc xuống hồ cửa tây;
Kẻ rằng: Treo ở cành cây
Người rằng: hẳn xuống giếng nầy không sai.
Thăm tìm ngày một ngày hai,
Định rằng hiệp táng cùng nơi học đường.
Hỏi ra sau mới biết tường,
Cũng loài uý tử, cũng phường tham sinh.
Phép công nên tội đào chinh,
Rồi ra nặng túi nhân tình lại thôi (13)
Văn như Tuần vũ nực cười,
Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già (14)
Biết bao cơm áo nước nhà?
Nhắm trong sĩ tịch cũng là đại viên.
Chén son chưa cạn lời nguyền,
Nỡ nào bỗng chốc quên liền ngay đi? (15)
Lại còn lẩn khuất làm chi?
Hay là tham tiếc mùi gì ở đây?
Hay là còn chước bình Tây,
Chực làm nội ứng, đợi ngày viện binh?
Hay là tiếc gái xuân xanh? (16)
Hay là còn chút khuê hình từ thân (17)
Ngổn ngang tính nỗi xa gần,
Rắp toan tịch cốc mấy lần lại thôi. (18)
Sao không sợ tiếng với đời?
Sao không thẹn với chế đài tuyền cung (19)
Kìa Tôn Thất Bá niết công, (20)
Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,
Đã quốc tộc, lại vương thần,
Sao không nghĩ đến quân thân, nhưng mà.....
Nước non vẫn nước non nhà,
Nỡ nào để mất một tòa Thăng Long?
Thế xưa liệu đã chẳng xong,
Lại còn mở mặt trong vòng trần gian!
Tư giao sắp những mưu gian,
Thừa cơ xin chữ hội thương ra ngoài (21)
Ấy mới khôn, ấy mới tài,
Lẩn đi tránh tiếng, giục người tiến chinh.
Dâng công quyền nhận tỉnh thành,
Xui người đổ tiếng một mình quan trên.(22)
Tội danh thiệt đã quả nhiên,
Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài
Thung dung kể đến phiên đài(23)
Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.
Thác trong thôi cũng nên đời.
Sống thừa chi để kẻ cười người chê?
Nhĩ mi Tản lãnh đi về,(24)
Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!
Còn như ty thuộc hạ liêu,
Kẻ công người quả còn nhiều chan chan,
Biết đâu cho hết mà bàn,
Sau nầy sẽ có sử quan phẩm bình,
Trước rèm gió mát trăng thanh(25)
Thừa lương có chốn nhàn đình thong dong.

Xa trông chót vót Bình phong(26)
Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!
Rồi khi cá nước duyên hài,
Ra tay khương tế, giở tài kinh luân.
Nghiêu Thuấn quân, Nghiêu Thuấn dân,
Bát thiên thu, bát thiên xuân thái hòa!
Bây giờ ta gắn với ta,
Túy tinh khiển hứng, ngâm nga tiêu sầu.
Ở đời văn võ công hầu,
Càng nghe câu chuyện càng sầu bên tai!
Diễn nôm Chánh khí một bài,
Để cho thiên hạ người người khuyên răn(*).


Chú thích

(1) Đây nhẫn lên lấy đại ý trong bài Chánh khí ca của Văn Thiên Tường.
(2) Cụ họ Hoàng tên là Diệu, tự là Quang Viễn, người làng Xuân Đài tỉnh Quảng Nam, có đậu cử nhân và phó bảng.
(3) Tháng hai năm ấy, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm lính ở Sài Gòn ra Hải Phòng, rồi lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thuỷ. Cụ Tổng đốc thấy vậy thì sửa sang thành trì để phòng bị. Đại tá không ưng. Ngày mồng 8, lúc 5 giờ sáng, đưa tối hậu thơ, hẹn đến 8 giờ không đầu thì đánh.
(4) Nghĩa là thề với quân lính…….
(5) Có người đã chứng kiến trong khi giao chiến, nói rằng bấy giờ trong thành bắn ra, lính Pháp chẳng chết mấy; đấy là lời nói khoe đó thôi.
(6) Bấy giờ bốn ông quan tỉnh chia giữ bốn cửa, quan Tổng đốc giữ Cửa Bắc.
(7) Hai bên giao chiến từ 8 giờ đến 11 giờ thì kho thuốc súng trong thành phát hoả, quân lính rối loạn, bèn đổ chạy. Theo đây thì như có người làm nội công, đốt kho thuốc; song không phải, đó là lửa ngoài bắn vào.
(8) Quân Pháp leo vào thành từ phía tây.
(9) Cụ Tổng đốc Hoàng cởi giây thắt lưng bằng nhiễu điều ra tự ải trên nhành cây táo trước mặt Võ Miếu.
(10) Bấy giờ quyền táng ngài trong trường Đốc; sau đó ba tháng mới đưa quan tài về Quảng Nam.
(11) Năm Tân Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873), Hà Nội bị thất thủ một lần rồi, lần nầy là lần thứ hai.
(12) Tức là cụ Nguyễn Tri Phương uống thuốc độc mà chết theo thành Hà Nội thất thủ lần thứ nhứt.
(13) Đoạn nầy nói Đề đốc Lê Trinh không chết trong khi thành mất mà lại chạy trốn, theo phép phải có tội, song vì đút tiền thì được khỏi.
(14) Hoàng Hữu Xứng, tự Bình Chi, làm Tuần vũ Hà Nội bấy giờ.
(15) Bữa chiều mồng bảy, các quan có uống rượu mà thề cùng nhau sẽ lấy chết giữ thành.
(16) Ông nầy mới vừa cưới hầu non thì gặp giặc.
(17) Ổng còn mẹ già.
(18) Hoàng Hữu Xứng đã nhịn đói mấy ngày, sau ăn trở lại.
(19) Chế đài là Tổng đốc; tuyền cung là âm phủ.
(20) Tôn Thất Bá làm Án sát bấy giờ.
(21) Buổi sớm mai ngày mồng tám, quân Pháp mới kéo đến, ông Bá xin giấy ra thành để thương thuyết với tướng Pháp xin hoãn binh.
(22) Sau khi thành bị hạ, tướng Pháp giao thành lại, ông Bá đứng nhận. Ông ấy lấy chứng cớ mình ra ngoài hội thương mà đổ trách nhiệm đánh nhau cho một mình quan Tổng đốc, còn mình không dự.
(23) Phiên đài là quan Bố chính.
(24) Quan Bố (quên tên) thì chạy lên Sơn Tây rồi trở về Hà Nội, đi lại nhiều lần.
(25) Đây sắp xuống là lời tác giả tự phu.
(26) Bình phong là núi Ngự Bình ở Huế


Vài nét về tác giả - Ba Giai

Ba Giai tên thật là Nguyễn Văn Giai, là một nhà thơ châm biếm vào cuối thế kỷ 19Việt Nam. Năm sinh và năm mất không rõ, nhưng biết rằng ông sống vào khoảng thời gian dưới triều Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883) người làng Hồ Khẩu huyện Vĩnh Thuận - Hà Nội. Ông là con thứ ba trong gia đình nên gọi là Ba Giai.

Đối tượng châm biếm chính trong các bài thơ của Ba Giai là các quan tham nhũng, các người trọc phú.

Ba Giai không chỉ nổi tiếng với các bài thơ châm biếm mà ông còn là tác giả của tác phẩm Hà thành chính khí ca. Bài thơ gồm 140 câu, được sáng tác sau khi Hà Nội bị thực dân Pháp xâm chiếm năm 1882, trong đó ông biểu dương gương hy sinh lẫm liệt của Hoàng Diệu.



Tổng đốc Hoàng Diệu.


“Ông ngoại tôi (Hoàng Diệu) làm đến Tổng đốc Hà Nội mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đã tróc ngói…”
.Phan Khôi

I.Tóm tắt tiểu sử:

Hoàng Diệu tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10-2 năm Kỷ Sửu (tức ngày 5-3-1829) tại làng Xuân Đài, nay thuộc xã Điện Quang, vùng Gò Nổi, Điện Bàn. Ông là một trong các nhà khoa bảng yêu nước ở quê hương đất Quảng.

Gia đình xuất thân nhà nông và theo nho học. Ông thân sinh là Hoàng Văn Cự làm hương chức, qua đời năm 54 tuổi. Bà thân mẫu Phạm Thị Khuê thọ 88 tuổi, tần tảo làm ruộng và chăn tằm, nuôi dạy con cái. Gia đình có 11 người con, 8 trai, 3 gái. Gần xa trong tỉnh, anh em Hoàng Diệu nổi tiếng hiếu học và học giỏi.Lớn lên 6 người đỗ đạt: một phó bảng, 3 cử nhân và 2 tú tài.

Khoa thi hương tại Thừa Thiên năm 1848, Hoàng Kim Giám, 23 tuổi và Hoàng Kim Tích, tức Hoàng Diệu, 20 tuổi cùng đỗ cử nhân .Hoàng Kim Giám không ra làm quan, qua đời năm 34 tuổi. Hoàng Diệu, 25 tuổi thi đình (1853) đỗ phó bảng.

Hoàng Diệu được đánh giá là một vị quan thanh liêm chính trực, vì nước vì dân, rất được vua Tự Đức tin dùng. Suốt 30 năm làm quan nhiều nơi, cảnh nhà vẫn thanh bạch, nghèo túng. Tuy nhiên, tại các nơi ông cai quản trật tự xã hội rất nghiêm minh, không có tình trạng trộm cướp, áp bức dân lành. Vua Tự Đức đã khen Hoàng Diệu rằng: "Chăm lo cho dân Bắc Hà, ngoài Hoàng Diệu ra không ai hơn"..
Trên các bước đường làm quan, theo Đại Nam chính biên liệt truyện, Hoàng Diệu "tính tình cương trực, thanh liêm, lâm sự quyết đoán, có phong độ bậc đại thần"…

II.Thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai(1882):

Đầu năm 1880, Hoàng Diệu nhận chức tổng đốc Hà Ninh kiêm trông coi công việc thương chánh.Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Năm 1882 thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc, ông làm nghi kỵ lắm. Một mặt ông phái Tuần Phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp, mặt khác ông lo chỉnh đốn lại thành trì và quân ngũ để đề phòng.
Lấy cớ ta không tôn trọng hiệp ước năm 1874 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng Hà và cấm đạo, Thống Đốc Hải Quân Pháp, Đại tá Henri Rivière cho mấy tàu chiến cùng 4000 quân ra đóng tại Đồn Thủy (trên bờ sông Hồng Hà phía Đông nằm sát Hà Nội) và cho quân lính đi hoành hành phá rối và hăm dọa trên các đường phố.

Trước đó ông Hoàng Diệu đã dâng sớ lên Vua Tự Đức đề nghị việc phòng chống giặc, vì theo ông Hà Nội là yết hầu của Bắc Kỳ và cũng là nơi then chốt của nước ta . Nếu Hà Nội mất thì các tỉnh khác sẽ mất theo, nhưng Vua Tự Đức làm thinh . Đến khi Hà Nội bị uy hiếp, ông Hoàng Diệu một mặt xin triều đình Huế viện binh, một mặt ra lệnh giới nghiêm và thông báo các tỉnh đề phòng. Trong khi Hà Nội ở trong tình thế dầu sôi lữa bỏng thì phái chủ bại ở triều đình Huế đề nghị mở cửa thành cho quân Pháp ra vào tự do và triệt binh để người Pháp khỏi nghi ngờ . Ngay cả Vua Tự Đức cũng hạ chiếu quở trách ông đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường.

Nhưng ông Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần Phủ Hoàng Hữu Xung, Đề Đốc Lê Văn Trinh, Bố Chánh Phan Văn Tuyển, Án Sát Tôn Thức Bá, và lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với thành .

Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhăm Ngọ, Henri Rivière sai thông dịch viên đưa tối hậu thư vào thành cho ông Hoàng Diệu, buộc ông phải cho quân lính rời khỏi thành sau khi hạ hết khí giới và mở cửa thành, ông cùngcác quan phải ra nộp mình cho hắn .

Theo bản Corresponance politique du Commanant Henri Riviere au Tonkin của André Masson thì Henri Riviere buộc "Ðúng 8 giờ sáng ngài phải thân hành đến dinh tôi hàng phục, có mặt đông đủ các quan Tuần Phủ, Bố Chánh, Án sát, Đề Đốc, Chánh, Phó Lãnh Binh . Nếu đúng 8 giờ, Ngài và toàn thể thuộc viên của Ngài không đến Lãnh sự quán để tỏ vẻ chấp thuận những điều kiện của tôi, thì quân đội của tôi lập tức tấn công vào thành . . ."

Henri Rivière không chờ thư trả lời, cho tàu chiến bắn vào thành rồi cho quân tiến lên. Tôn Thất Bá xin ra ngoài thành để giao thiệp với địch một lần cuối . Bắc thang leo ra khỏi thành, Bá liền cho giặc biết cách bố trí của ta để giặc nổ súng . Rồi một mặt Bá dâng sớ lên Vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu, một mặt xin với giặc cho Bá thay làm Tổng Đốc Hà Ninh. Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa. Quân ta dưới quyền chỉ huy của ông Hoàng Diệu đã anh dũng chiến đấu giết hàng trăm tên giặc

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt gây cho địch nhiều thiệt hại, thì thình lình kho thuốc súng nổ, lửa bốc cháy ngùn ngụt . Đám cháy càng lan rộng, hàng ngũ chiến đấu càng hoang mang, quân giặc thừa cơ bắt thang trèo vào, phá cổng thành phía tây rồi ồ ạt kéo vào như nước chảy Bố Chánh Phan Văn Tuyển thấy thành lâm nguy bỏ chạy trước; Đề Đốc Lê Văn Trinh giả vờ tự tử; Phó Lãnh Binh Lê Trực ở cửa tây cũng tháo lui; Tuần Phủ Hoàng Hữu Xứng bị Pháp bắt, nhịn ăn mấy bữa rồi ăn lại như thường . Duy chỉ có Thủy Sư Đề Đốc Nguyễn Đình Kháng liều chết cố thủ ở cửa thành phía nam cho đến giây phút cuối cùng .

Riêng ông Hoàng Diệu tuy thế cô nhưng không bao giờ nao núng trước làn súng đạn tuôn như mưa bão, trước những tiếng vang rền như sấm động, trước cảnh tàn khốc của một kinh thành sắp mất, ông vẫn hăng hái tiến lên cùng với toán quân còn lại xông xáo chém giết quân thù . Sau một cuộc chiến đấu nhưng vô vọng, quân ta dần tan rã .

Trong vòng khói lửa ngợp trời ấy, ông Hoàng Diệu đi về dinh, nai nịt gọn gàng, mặc chiếc áo the thâm, tấm khăn nhiễu xanh chít lên đầu, và dải dây lưng nhiễu hồng thắt ra áo ngoài, tay cầm thanh kiếm tuốt trần, rồi lên mình voi xông trong mưa đạn tiến vào thành cung . Tại đây ông truyền lịnh:"Ai muốn về kinh thì về, còn ai muốn chiến đấu nữa thì lên Sơn Tây tập hợp với đại binh của Hoàng Kế Viêm chờ ngày báo phục".
Khi mọi người giải tán, ông vào dinh viết bài di biểu tạ tội, rồi quay ra đi thẳng đến cửa Võ Miếu lật chiếc khăn đang bịt trên đầu treo mình lên cành cây trước Miếu mà tuẫn tiết đúng vào giờ Ngọ, tức ngày 25 tháng 4 năm 1882. Ông thọ 54 tuổi .

III.Ai ai cũng ca ngợi khí tiết của Hoàng Diệu :

Mặc dầu Vua Tự Đức đã làm chậm trễ cho việc chuẩn bị kháng chiến vì đã nghe theo lời một số quan lại chủ bại tại triều đình Huế . Ông Hoàng Diệu vẫn quyết tâm bảo vệ thành trì và chết theo thành . Bài Chính Khí Ca của ông Nguyễn Văn Giai (Ba Giai) đã diễn tả cái thế quyết tâm bảo vệ thành trì của quân dân trong thành . Nếu có viện binh kịp thời và không có bàn tay phản động đốt kho súng và chỉ điểm cho giặc của một số người phản bội, thì thành Hà Nội chưa dễ gì bị hạ mau chóng .

Trước cái chết khí tiết của Hoàng Diệu, các giới sĩ phu, văn thân và nhân dân Bắc Hà và cả nước khâm phục thương tiếc . Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông Hoàng Diệu trong hai câu đối:

"Nhất cử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm"

Dịch:
"Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước
Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm ."

Trong bài Chính Khí Ca, Ba Giai đã hết lòng khen ngợi và thương tiếc ông qua các câu thơ:

"…Chữ trung còn chút con con
Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây
Trời cao, bể rộng, đất dày
Núi Nùng, Sông Nhị chốn này mà ghi…”

Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ ông Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông Hoàng Diệu đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc táng . Sĩ phu Hà Thành lập đền thờ ông ở phố Văn Tân, sau thờ chung với ông Nguyễn Trí Phương trong đền Trung Liệt trên gò Đống Đa với đôi câu đối:


"Thử thành quách, thử giang sơn
Bách chiến phong trần dư xích địa
Vi nhật tinh, vi hà nhạc
Thập niên tâm sự vọng thanh thiên"

Dịch: Kia thành quách, kia non sông,trăm trận phong trần còn thước đất. Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Cụ (...) có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe

Tay đã cầm bút lại cầm binh
Muôn dặm giang sơn nặng một minh
Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa
Giữ thành, thành mất, mất theo thành
Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc
Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh
Di biểu nay còn sôi chính khí
Khiến người thêm trọng bút khoa danh

Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).
Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.
Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2007

Tống Biệt Hành

Tống Biệt Hành
Sáng tác: Thâm Tâm

Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng...

-Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong

Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót

Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say


----------------------------------
Vài nét về Thâm Tâm
Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Thâm_Tâm

Thâm Tâm (19171950) là một nhà thơ Việt Nam. Ông nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành, với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí rất cao. Ông cũng được xem là có liên quan đến một thi sĩ bí ẩn cuối thập niên 1930T.T.Kh.

Cuộc đời và sự nghiệp

Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Xuất thân trong một nhà giáo nền nếp, thuở nhỏ, từ năm 1938, ông học tiểu học ở Hà Nội, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ nămTruyền bá quốc ngữ... Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban Biên tập báo Tiên Phong (1945-1946), sau đó ông nhập ngũ, làm thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau là báo Quân đội Nhân dân).

Ông mất sau một cơn đau tim đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác tại chiến khu Việt Bắc.

Thâm Tâm nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.

Ngoài ra, Thâm Tâm còn có có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh, Màu máu Tygôn, Dang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh trong năm 1940. Trong các bài thơ, ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là T.T.Kh. Tuy nhiên, vẫn không ai biết chính xác là như thế nào.

Tác phẩm chính

Thơ

  • Tống biệt hành (Thi nhân Việt Nam, 1942)
  • Ngẫm nghĩ cố sự
  • Chào Hương Sơn
  • Ly biệt
  • Vạn lý Trường thành (thơ in trên các báo trước 1945)
  • Chiều mưa đường số 5 (1948)
  • Thơ Thâm Tâm (1988)

Kịch

  • Sương tháng Tám (kịch một hồi, Tiểu thuyết thứ bảy, 1939)
  • Nga Thiên Hương
  • 19-8
  • Lối sống (1945)
  • Lá cờ máu
  • Người thợ (1946)

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2007

The Prince´s Tale Severus - Lily story - My Immortal

The Prince´s Tale Severus - Lily story - My Immortal