... hu28m, tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn xếp, vai mang nải hoa ...

...

Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2007

Hà thành chính khí ca - Ba Giai

Hà Thành chính khí ca

Sáng tác: Nguyễn Văn Giai (Ba Giai)

Một vầng chính khí lưu bình,
Rộng trong trời đất, nhật tinh sơn hà,
Hạo nhiên ở tại người ta,
Tấc vuông son sắt hiện ra khi cùng.(1)
Nên thua theo vận truân phong,
Ngàn thu rạng tiếng anh hùng sử xanh.
Có quan tổng đốc Hà Ninh
Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng? (2)
Lâm nguy, lý hiểm đã từng,
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.
Thôn hồ dạ những chăm chăm,
Ngoài tuy giao thiệp, trong căm những là...
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,
Rạng ngày mồng tám, mới qua giờ thìn,
Biết cơ trước đã giữ gìn,
Hơn trăm võ sĩ, vài nghìn tinh binh.(3)
Tiên nghiêm lên đóng trên thành,
Thệ sư (4) rót chén rượu quỳnh đầy vơi.
Văn quan võ tướng nghe lời,
Ai ai xin quyết một bài tận trung.
Ra uy xuống lịnh vừa xong,
Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran.

(Tòa kiểm duyệt thời 1928 cắt bỏ hết một đoạn)
Bắn ra nó chết cũng nhiều(5)

Phố phường trông thấy, tiếng reo ầm ầm!
Quan quân đắc chí bình tâm,
Trên thành Cửa Bắc vẫn cầm vững binh.(6)

(Tòa kiểm duyệt thời 1928 cắt bỏ hết một đoạn)

Không ngờ thất ý tại ta,
Vẫn rằng thắng trận, hóa mà thua cơ!
Nội công phải những bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo (7)
Quan quân sát khí cũng nhiều,
Thành tây loài qủi đánh liều trèo lên .
Nào ai sức mạnh gan liền?
Nào ai cầm vững cho bền ba quân?
Nào ai có chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu,
Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây.(9)
Trời cao, biển rộng, đất dày,
Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
Than ôi trong lúc gian nguy!
Đau lòng ai cũng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.(10)
Đau đớn nhẽ! ngẩn ngơ dường!
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!
Kể từ năm Dậu bao xa,(11)
Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.
Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.
Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sinh tựu nghĩa, có gan mấy người?
Trước, quan Võ Hiển khâm sai (12)
Sau, quan Tổng đốc một vài mà thôi.
Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan bào trâm hốt nhác coi ngỡ là...
Thanh bình làm hại dân ta,
Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn gian nguy,
Mắt trông ngơ ngác, chân đi gập ghềnh.
Võ, như đề đốc Lê Trinh,
Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,
Đương khi giao chiến ngang tàng,
Thấy quân hầu đổ vội vàng chạy ngay.
Nghĩ xem thật cũng ghê thay,
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?
Thế mà nghe nói mồ hồ
Rằng: quan đề đốc xuống hồ cửa tây;
Kẻ rằng: Treo ở cành cây
Người rằng: hẳn xuống giếng nầy không sai.
Thăm tìm ngày một ngày hai,
Định rằng hiệp táng cùng nơi học đường.
Hỏi ra sau mới biết tường,
Cũng loài uý tử, cũng phường tham sinh.
Phép công nên tội đào chinh,
Rồi ra nặng túi nhân tình lại thôi (13)
Văn như Tuần vũ nực cười,
Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già (14)
Biết bao cơm áo nước nhà?
Nhắm trong sĩ tịch cũng là đại viên.
Chén son chưa cạn lời nguyền,
Nỡ nào bỗng chốc quên liền ngay đi? (15)
Lại còn lẩn khuất làm chi?
Hay là tham tiếc mùi gì ở đây?
Hay là còn chước bình Tây,
Chực làm nội ứng, đợi ngày viện binh?
Hay là tiếc gái xuân xanh? (16)
Hay là còn chút khuê hình từ thân (17)
Ngổn ngang tính nỗi xa gần,
Rắp toan tịch cốc mấy lần lại thôi. (18)
Sao không sợ tiếng với đời?
Sao không thẹn với chế đài tuyền cung (19)
Kìa Tôn Thất Bá niết công, (20)
Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,
Đã quốc tộc, lại vương thần,
Sao không nghĩ đến quân thân, nhưng mà.....
Nước non vẫn nước non nhà,
Nỡ nào để mất một tòa Thăng Long?
Thế xưa liệu đã chẳng xong,
Lại còn mở mặt trong vòng trần gian!
Tư giao sắp những mưu gian,
Thừa cơ xin chữ hội thương ra ngoài (21)
Ấy mới khôn, ấy mới tài,
Lẩn đi tránh tiếng, giục người tiến chinh.
Dâng công quyền nhận tỉnh thành,
Xui người đổ tiếng một mình quan trên.(22)
Tội danh thiệt đã quả nhiên,
Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài
Thung dung kể đến phiên đài(23)
Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.
Thác trong thôi cũng nên đời.
Sống thừa chi để kẻ cười người chê?
Nhĩ mi Tản lãnh đi về,(24)
Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!
Còn như ty thuộc hạ liêu,
Kẻ công người quả còn nhiều chan chan,
Biết đâu cho hết mà bàn,
Sau nầy sẽ có sử quan phẩm bình,
Trước rèm gió mát trăng thanh(25)
Thừa lương có chốn nhàn đình thong dong.

Xa trông chót vót Bình phong(26)
Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!
Rồi khi cá nước duyên hài,
Ra tay khương tế, giở tài kinh luân.
Nghiêu Thuấn quân, Nghiêu Thuấn dân,
Bát thiên thu, bát thiên xuân thái hòa!
Bây giờ ta gắn với ta,
Túy tinh khiển hứng, ngâm nga tiêu sầu.
Ở đời văn võ công hầu,
Càng nghe câu chuyện càng sầu bên tai!
Diễn nôm Chánh khí một bài,
Để cho thiên hạ người người khuyên răn(*).


Chú thích

(1) Đây nhẫn lên lấy đại ý trong bài Chánh khí ca của Văn Thiên Tường.
(2) Cụ họ Hoàng tên là Diệu, tự là Quang Viễn, người làng Xuân Đài tỉnh Quảng Nam, có đậu cử nhân và phó bảng.
(3) Tháng hai năm ấy, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm lính ở Sài Gòn ra Hải Phòng, rồi lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thuỷ. Cụ Tổng đốc thấy vậy thì sửa sang thành trì để phòng bị. Đại tá không ưng. Ngày mồng 8, lúc 5 giờ sáng, đưa tối hậu thơ, hẹn đến 8 giờ không đầu thì đánh.
(4) Nghĩa là thề với quân lính…….
(5) Có người đã chứng kiến trong khi giao chiến, nói rằng bấy giờ trong thành bắn ra, lính Pháp chẳng chết mấy; đấy là lời nói khoe đó thôi.
(6) Bấy giờ bốn ông quan tỉnh chia giữ bốn cửa, quan Tổng đốc giữ Cửa Bắc.
(7) Hai bên giao chiến từ 8 giờ đến 11 giờ thì kho thuốc súng trong thành phát hoả, quân lính rối loạn, bèn đổ chạy. Theo đây thì như có người làm nội công, đốt kho thuốc; song không phải, đó là lửa ngoài bắn vào.
(8) Quân Pháp leo vào thành từ phía tây.
(9) Cụ Tổng đốc Hoàng cởi giây thắt lưng bằng nhiễu điều ra tự ải trên nhành cây táo trước mặt Võ Miếu.
(10) Bấy giờ quyền táng ngài trong trường Đốc; sau đó ba tháng mới đưa quan tài về Quảng Nam.
(11) Năm Tân Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873), Hà Nội bị thất thủ một lần rồi, lần nầy là lần thứ hai.
(12) Tức là cụ Nguyễn Tri Phương uống thuốc độc mà chết theo thành Hà Nội thất thủ lần thứ nhứt.
(13) Đoạn nầy nói Đề đốc Lê Trinh không chết trong khi thành mất mà lại chạy trốn, theo phép phải có tội, song vì đút tiền thì được khỏi.
(14) Hoàng Hữu Xứng, tự Bình Chi, làm Tuần vũ Hà Nội bấy giờ.
(15) Bữa chiều mồng bảy, các quan có uống rượu mà thề cùng nhau sẽ lấy chết giữ thành.
(16) Ông nầy mới vừa cưới hầu non thì gặp giặc.
(17) Ổng còn mẹ già.
(18) Hoàng Hữu Xứng đã nhịn đói mấy ngày, sau ăn trở lại.
(19) Chế đài là Tổng đốc; tuyền cung là âm phủ.
(20) Tôn Thất Bá làm Án sát bấy giờ.
(21) Buổi sớm mai ngày mồng tám, quân Pháp mới kéo đến, ông Bá xin giấy ra thành để thương thuyết với tướng Pháp xin hoãn binh.
(22) Sau khi thành bị hạ, tướng Pháp giao thành lại, ông Bá đứng nhận. Ông ấy lấy chứng cớ mình ra ngoài hội thương mà đổ trách nhiệm đánh nhau cho một mình quan Tổng đốc, còn mình không dự.
(23) Phiên đài là quan Bố chính.
(24) Quan Bố (quên tên) thì chạy lên Sơn Tây rồi trở về Hà Nội, đi lại nhiều lần.
(25) Đây sắp xuống là lời tác giả tự phu.
(26) Bình phong là núi Ngự Bình ở Huế


Vài nét về tác giả - Ba Giai

Ba Giai tên thật là Nguyễn Văn Giai, là một nhà thơ châm biếm vào cuối thế kỷ 19Việt Nam. Năm sinh và năm mất không rõ, nhưng biết rằng ông sống vào khoảng thời gian dưới triều Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883) người làng Hồ Khẩu huyện Vĩnh Thuận - Hà Nội. Ông là con thứ ba trong gia đình nên gọi là Ba Giai.

Đối tượng châm biếm chính trong các bài thơ của Ba Giai là các quan tham nhũng, các người trọc phú.

Ba Giai không chỉ nổi tiếng với các bài thơ châm biếm mà ông còn là tác giả của tác phẩm Hà thành chính khí ca. Bài thơ gồm 140 câu, được sáng tác sau khi Hà Nội bị thực dân Pháp xâm chiếm năm 1882, trong đó ông biểu dương gương hy sinh lẫm liệt của Hoàng Diệu.



Tổng đốc Hoàng Diệu.


“Ông ngoại tôi (Hoàng Diệu) làm đến Tổng đốc Hà Nội mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đã tróc ngói…”
.Phan Khôi

I.Tóm tắt tiểu sử:

Hoàng Diệu tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10-2 năm Kỷ Sửu (tức ngày 5-3-1829) tại làng Xuân Đài, nay thuộc xã Điện Quang, vùng Gò Nổi, Điện Bàn. Ông là một trong các nhà khoa bảng yêu nước ở quê hương đất Quảng.

Gia đình xuất thân nhà nông và theo nho học. Ông thân sinh là Hoàng Văn Cự làm hương chức, qua đời năm 54 tuổi. Bà thân mẫu Phạm Thị Khuê thọ 88 tuổi, tần tảo làm ruộng và chăn tằm, nuôi dạy con cái. Gia đình có 11 người con, 8 trai, 3 gái. Gần xa trong tỉnh, anh em Hoàng Diệu nổi tiếng hiếu học và học giỏi.Lớn lên 6 người đỗ đạt: một phó bảng, 3 cử nhân và 2 tú tài.

Khoa thi hương tại Thừa Thiên năm 1848, Hoàng Kim Giám, 23 tuổi và Hoàng Kim Tích, tức Hoàng Diệu, 20 tuổi cùng đỗ cử nhân .Hoàng Kim Giám không ra làm quan, qua đời năm 34 tuổi. Hoàng Diệu, 25 tuổi thi đình (1853) đỗ phó bảng.

Hoàng Diệu được đánh giá là một vị quan thanh liêm chính trực, vì nước vì dân, rất được vua Tự Đức tin dùng. Suốt 30 năm làm quan nhiều nơi, cảnh nhà vẫn thanh bạch, nghèo túng. Tuy nhiên, tại các nơi ông cai quản trật tự xã hội rất nghiêm minh, không có tình trạng trộm cướp, áp bức dân lành. Vua Tự Đức đã khen Hoàng Diệu rằng: "Chăm lo cho dân Bắc Hà, ngoài Hoàng Diệu ra không ai hơn"..
Trên các bước đường làm quan, theo Đại Nam chính biên liệt truyện, Hoàng Diệu "tính tình cương trực, thanh liêm, lâm sự quyết đoán, có phong độ bậc đại thần"…

II.Thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai(1882):

Đầu năm 1880, Hoàng Diệu nhận chức tổng đốc Hà Ninh kiêm trông coi công việc thương chánh.Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Năm 1882 thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc, ông làm nghi kỵ lắm. Một mặt ông phái Tuần Phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp, mặt khác ông lo chỉnh đốn lại thành trì và quân ngũ để đề phòng.
Lấy cớ ta không tôn trọng hiệp ước năm 1874 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng Hà và cấm đạo, Thống Đốc Hải Quân Pháp, Đại tá Henri Rivière cho mấy tàu chiến cùng 4000 quân ra đóng tại Đồn Thủy (trên bờ sông Hồng Hà phía Đông nằm sát Hà Nội) và cho quân lính đi hoành hành phá rối và hăm dọa trên các đường phố.

Trước đó ông Hoàng Diệu đã dâng sớ lên Vua Tự Đức đề nghị việc phòng chống giặc, vì theo ông Hà Nội là yết hầu của Bắc Kỳ và cũng là nơi then chốt của nước ta . Nếu Hà Nội mất thì các tỉnh khác sẽ mất theo, nhưng Vua Tự Đức làm thinh . Đến khi Hà Nội bị uy hiếp, ông Hoàng Diệu một mặt xin triều đình Huế viện binh, một mặt ra lệnh giới nghiêm và thông báo các tỉnh đề phòng. Trong khi Hà Nội ở trong tình thế dầu sôi lữa bỏng thì phái chủ bại ở triều đình Huế đề nghị mở cửa thành cho quân Pháp ra vào tự do và triệt binh để người Pháp khỏi nghi ngờ . Ngay cả Vua Tự Đức cũng hạ chiếu quở trách ông đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường.

Nhưng ông Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần Phủ Hoàng Hữu Xung, Đề Đốc Lê Văn Trinh, Bố Chánh Phan Văn Tuyển, Án Sát Tôn Thức Bá, và lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với thành .

Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhăm Ngọ, Henri Rivière sai thông dịch viên đưa tối hậu thư vào thành cho ông Hoàng Diệu, buộc ông phải cho quân lính rời khỏi thành sau khi hạ hết khí giới và mở cửa thành, ông cùngcác quan phải ra nộp mình cho hắn .

Theo bản Corresponance politique du Commanant Henri Riviere au Tonkin của André Masson thì Henri Riviere buộc "Ðúng 8 giờ sáng ngài phải thân hành đến dinh tôi hàng phục, có mặt đông đủ các quan Tuần Phủ, Bố Chánh, Án sát, Đề Đốc, Chánh, Phó Lãnh Binh . Nếu đúng 8 giờ, Ngài và toàn thể thuộc viên của Ngài không đến Lãnh sự quán để tỏ vẻ chấp thuận những điều kiện của tôi, thì quân đội của tôi lập tức tấn công vào thành . . ."

Henri Rivière không chờ thư trả lời, cho tàu chiến bắn vào thành rồi cho quân tiến lên. Tôn Thất Bá xin ra ngoài thành để giao thiệp với địch một lần cuối . Bắc thang leo ra khỏi thành, Bá liền cho giặc biết cách bố trí của ta để giặc nổ súng . Rồi một mặt Bá dâng sớ lên Vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu, một mặt xin với giặc cho Bá thay làm Tổng Đốc Hà Ninh. Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa. Quân ta dưới quyền chỉ huy của ông Hoàng Diệu đã anh dũng chiến đấu giết hàng trăm tên giặc

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt gây cho địch nhiều thiệt hại, thì thình lình kho thuốc súng nổ, lửa bốc cháy ngùn ngụt . Đám cháy càng lan rộng, hàng ngũ chiến đấu càng hoang mang, quân giặc thừa cơ bắt thang trèo vào, phá cổng thành phía tây rồi ồ ạt kéo vào như nước chảy Bố Chánh Phan Văn Tuyển thấy thành lâm nguy bỏ chạy trước; Đề Đốc Lê Văn Trinh giả vờ tự tử; Phó Lãnh Binh Lê Trực ở cửa tây cũng tháo lui; Tuần Phủ Hoàng Hữu Xứng bị Pháp bắt, nhịn ăn mấy bữa rồi ăn lại như thường . Duy chỉ có Thủy Sư Đề Đốc Nguyễn Đình Kháng liều chết cố thủ ở cửa thành phía nam cho đến giây phút cuối cùng .

Riêng ông Hoàng Diệu tuy thế cô nhưng không bao giờ nao núng trước làn súng đạn tuôn như mưa bão, trước những tiếng vang rền như sấm động, trước cảnh tàn khốc của một kinh thành sắp mất, ông vẫn hăng hái tiến lên cùng với toán quân còn lại xông xáo chém giết quân thù . Sau một cuộc chiến đấu nhưng vô vọng, quân ta dần tan rã .

Trong vòng khói lửa ngợp trời ấy, ông Hoàng Diệu đi về dinh, nai nịt gọn gàng, mặc chiếc áo the thâm, tấm khăn nhiễu xanh chít lên đầu, và dải dây lưng nhiễu hồng thắt ra áo ngoài, tay cầm thanh kiếm tuốt trần, rồi lên mình voi xông trong mưa đạn tiến vào thành cung . Tại đây ông truyền lịnh:"Ai muốn về kinh thì về, còn ai muốn chiến đấu nữa thì lên Sơn Tây tập hợp với đại binh của Hoàng Kế Viêm chờ ngày báo phục".
Khi mọi người giải tán, ông vào dinh viết bài di biểu tạ tội, rồi quay ra đi thẳng đến cửa Võ Miếu lật chiếc khăn đang bịt trên đầu treo mình lên cành cây trước Miếu mà tuẫn tiết đúng vào giờ Ngọ, tức ngày 25 tháng 4 năm 1882. Ông thọ 54 tuổi .

III.Ai ai cũng ca ngợi khí tiết của Hoàng Diệu :

Mặc dầu Vua Tự Đức đã làm chậm trễ cho việc chuẩn bị kháng chiến vì đã nghe theo lời một số quan lại chủ bại tại triều đình Huế . Ông Hoàng Diệu vẫn quyết tâm bảo vệ thành trì và chết theo thành . Bài Chính Khí Ca của ông Nguyễn Văn Giai (Ba Giai) đã diễn tả cái thế quyết tâm bảo vệ thành trì của quân dân trong thành . Nếu có viện binh kịp thời và không có bàn tay phản động đốt kho súng và chỉ điểm cho giặc của một số người phản bội, thì thành Hà Nội chưa dễ gì bị hạ mau chóng .

Trước cái chết khí tiết của Hoàng Diệu, các giới sĩ phu, văn thân và nhân dân Bắc Hà và cả nước khâm phục thương tiếc . Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông Hoàng Diệu trong hai câu đối:

"Nhất cử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm"

Dịch:
"Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước
Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm ."

Trong bài Chính Khí Ca, Ba Giai đã hết lòng khen ngợi và thương tiếc ông qua các câu thơ:

"…Chữ trung còn chút con con
Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây
Trời cao, bể rộng, đất dày
Núi Nùng, Sông Nhị chốn này mà ghi…”

Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ ông Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông Hoàng Diệu đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc táng . Sĩ phu Hà Thành lập đền thờ ông ở phố Văn Tân, sau thờ chung với ông Nguyễn Trí Phương trong đền Trung Liệt trên gò Đống Đa với đôi câu đối:


"Thử thành quách, thử giang sơn
Bách chiến phong trần dư xích địa
Vi nhật tinh, vi hà nhạc
Thập niên tâm sự vọng thanh thiên"

Dịch: Kia thành quách, kia non sông,trăm trận phong trần còn thước đất. Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Cụ (...) có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe

Tay đã cầm bút lại cầm binh
Muôn dặm giang sơn nặng một minh
Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa
Giữ thành, thành mất, mất theo thành
Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc
Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh
Di biểu nay còn sôi chính khí
Khiến người thêm trọng bút khoa danh

Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).
Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.
Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét